Hôm nay,  

Đảng Dân Chủ “Trên Mây”?

3/26/201300:00:00(View: 12708)
...chính trường Mỹ càng ngày càng phân hoá, càng bị các nhóm cực đoan chi phối.

Tuần vừa rồi, cột báo này đã bàn qua những khó khăn hiện tại của đảng Cộng Hòa. Nhưng nhìn lại thì đảng Dân Chủ cũng không khá hơn gì cho lắm.

Trong khi hậu thuẫn của TT Obama sau khi đắc cử với 52% phiếu đã rớt xuống lại khoảng 46%, thấp hơn tỷ lệ phiếu của TĐ Romney, thì hậu thuẫn của quốc hội, gồm cả hai phe Dân Chủ và Cộng Hòa, vẫn ở mức dưới 20%. Có nghĩa là nói chung, cử tri Mỹ chẳng thấy đảng nào hấp dẫn hết. TT đắc cử Obama bây giờ cũng chẳng hơn gì ứng viên thất cử Romney. Cộng Hòa thì có vẻ cực hữu quá, bảo thủ đến độ không theo kịp những thay đổi quá nhanh trong xã hội và thành phần cử tri Mỹ, trong khi Dân Chủ thì lại đi quá mau với những chủ trương cấp tiến quá mức, đi trước đa số dân Mỹ, điển hình là chủ trương chấp nhận hôn nhân đồng tính của phe cấp tiến cho đến nay vẫn chưa được sự ủng hộ của đa số dân Mỹ, mặc dù sự hậu thuẫn đó có khuynh hướng đang lên do sự cổ võ nhiệt liệt của truyền thông.

Và đây chính là vấn đề lớn cùa đảng Dân Chủ: có vẻ đi quá nhanh.

TT Obama sau khi tái đắc cử, đã cởi bỏ chiếc áo ôn hòa đại đoàn kết lưỡng đảng và hiện nguyên hình như một trong những tổng thống cấp tiến nhất lịch sử cận đại Mỹ. Không những cấp tiến nhất, mà còn có sự quyết tâm đến độ không cần thoả hiệp gì với khối đối lập bảo thủ hết. Từ một người chủ trương đại đoàn kết, ông đã trở thành vị tổng thống tạo phân hoá lớn nhất từ thời TT Jonhson.

Thành quả bốn năm đầu của ông rất rõ ràng. TT Obama cho thông qua được ba bộ luật quan trọng về cải tổ y tế, kích cầu kinh tế, và cải tổ ngân hàng. Nhưng cả ba bộ luật đều được thông qua mà không có phiếu nào của khối đối lập, thậm chí còn không được hậu thuẫn của khối bảo thủ trong chính đảng Dân Chủ.

TT Johnson trước đây tạo phân hoá lớn trong chính trường và xã hội Mỹ vì cuộc chiến tại Việt Nam. Nhưng ông đã rất cởi mở và kiên nhẫn đi tìm hậu thuẫn của đảng Cộng Hoà trong các quyết định liên quan đến cuộc chiến, mà cũng cố tìm đồng thuận trong các quyết định quan trọng khác như thành lập Medicare và Medicaid, cũng như “giải phóng” dân da đen, cho họ những quyền ngang với dân da trắng. Tất cả các quyết định và luật ban hành đều có được ít nhiều hậu thuẫn của đối lập Cộng Hòa, không như ba bộ luật của TT Obama.

Thái độ cực đoan của TT Obama cũng đã khuyến khích khối cấp tiến cực đoan trong đảng Dân Chủ càng thêm ... cực đoan.

Tuần qua, khối dân cử cấp tiến tổ chức hội thảo về ngân sách (Congressional Progressive Caucus). Hội thảo đưa ra đề nghị làm nhiều người choáng váng. Các dân cử cấp tiến Dân Chủ đề nghị một ngân sách mới với chi tiêu của Nhà Nước gia tăng hơn 2.100 tỷ!

Trong khi thiên hạ đang chóng mặt với sự vung tay quá trán của TT Obama, và trong khi ngay cả TT Obama cũng đã phải kêu gọi cắt giảm chi tiêu, và ngân sách cả nước đang bị chi phối bởi cái “sequester” bắt buộc phải cắt chi tiêu, thì mấy ông bà dân cử cấp tiến như vẫn còn trên mây, hô hào tăng chi tiêu thêm tới hơn hai ngàn tỷ.

Chưa hết. Kinh tế gia cấp tiến cực đoan –giải Nobel kinh tế - Paul Krugman, chê TT Obama thất bại chưa phục hồi được kinh tế vì ... chưa tiêu xài đủ, phải xài thêm cả ngàn tỷ nữa. Vấn đề ông này không nói là kiếm đâu ra số tiền khổng lồ đó?

Cái lý luận đưa đến những đề nghị này khá đơn giản, dựa trên nguyên tắc kinh tế vĩ mô của kinh tế gia John Maynard Keynes: Nhà Nước bơm tiền vào kinh tế bằng cách chi tiêu thật nhiều để tạo công ăn việc làm, và phục hồi kinh tế. Nhà Nước chấp nhận thâm thủng ngân sách trong nhất thời, nhưng sau đó, khi kinh tế phục hồi lại thì ngân sách sẽ cân bằng với thịnh vượng kinh tế và tận thu thuế má.

Vấn đề là cái ông Keynes này đưa ra thuyết này từ hồi đệ nhị thế chiến, cách đây nửa thế kỷ, như là một giải pháp để phục hồi Âu Châu sau những tàn phá của thế chiến. Cái lý luận này khi đó có thể áp dụng được vì lý do hiển nhiên là với sự tàn phá của chiến tranh, khu vực tư nhân đã biến mất. Chỉ còn Nhà Nước mới có phương tiện làm một cái gì. Thành ra, cái thuyết của ông Keynes đã đúng và thành công tuyệt đối, giúp xây dựng lại cả Âu Châu một cách nhanh chóng. Ở đây cũng phải nói ngay là nói “Nhà Nước bơm tiền” thực ra chỉ là Nhà Nước Mỹ, qua chương trình Marshall bơm cả chục tỷ đô (tương đương với cả trăm tỷ bây giờ) vào Âu Châu, chứ các nước Âu Châu, từ khu vực tư đến công đều kiệt quệ hết rồi.

Với sự thành công của thuyết Keynes, và nhất là dưới ảnh hưởng lớn mạnh của các chủ thuyết xã hội chủ nghiã sau thế chiến, với Liên Xô thống trị một nữa Âu Châu, trong khi nửa còn lái bị áp lực mạnh của các đảng Cộng Sản và Xã Hội, đặc biệt là các nước Pháp và Ý, các chính quyền Âu Châu lại càng tin tưởng vào vai trò quyết định của Nhà Nước. Âu Châu, từ Đông sang Tây, bị chi phối hoàn toàn bởi các chế độ Nhà Nước vú em, bao cấp tối đa, suốt trong bốn thập niên từ sau thế chiến.

Từ giữa thập niên 80 cho đến nay, tình hình đã thay đổi hoàn toàn. Chế độ Nhà Nước vú em cực đoan trong các nước cộng sản xụp đổ toàn diện, từ Đông Đức đến Liên Bang Xô Viết. Các chế độ Nhà Nước vú em ôn hòa hơn bên Tây Âu thì tuy không đến nỗi xụp đổ, nhưng đã và đang trải qua hết khủng hoảng này đến khủng hoảng khác, từ Hy Lạp đến Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bỉ,...

Một chuyên gia kinh tế đã xác định thuyết của ông Keynes chỉ có thể có hiệu quả với một vài điều kiện. Tiêu biểu là mức công nợ chưa lên quá cao, khu vực tư yếu chưa phát triển đầy đủ, và mức thuế còn tương đối thấp để có thể khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân.

Những điều kiện này đã không còn nữa từ cả thập niên qua, đưa đến thất bại của mô thức Keynes thất bại trong thời buổi này, nửa thế kỷ sau khi thế chiến đã chấm dứt. Dù vậy, những người tin vào mô thức Keynes này vẫn không chấp nhận thất bại hoàn toàn. Họ đẻ ra thuyết “tân Keynesian”, trên căn bản vẫn dựa trên nguyên tắc Nhà Nước bơm tiền vào kinh tế, với vài điều chỉnh trong chi tiết thực hành. Và đó là thuyết mà TT Obama và phe cấp tiến đang theo đuổi.

Nếu nhìn lại nhận định của chuyên gia kinh tế nêu trên, thì những điều kiện tất yếu cho sự thành công của thuyết Keynesian, cựu hay tân cũng vậy, vẫn không có trong kinh tế Mỹ trong những năm qua. Mức công nợ không thấp tý nào mà trái lại đã leo lên những mức kỷ lục không tưởng tượng nổi, với những hậu quả tai hại khó lường (chẳng hạn như gánh nợ sẽ đè bẹp vài thế hệ con cháu chúng ta, hay mỗi năm Nhà Nước phải chi cả trăm tỷ chỉ để trả tiền lãi trên công nợ, hay các Chú Ba và các ông vua dầu hỏa Hồi Giáo có thể chi phối kinh tế và chính trị Mỹ qua hàng ngàn tỷ công phiếu Mỹ mà họ đang và sẽ nắm trong tay). Khu vực tư nhân của Mỹ mạnh hơn bao giờ hết và đã chứng tỏ hữu hiệu hơn cả trăm lần khu vực công của các công chức lè phè. Và mức thuế cũng đã quá cao –thuế trên lợi nhuận của các công ty ở Mỹ cao thứ nhì trên thế giới, sau Nhật Bản-, có thể nói đã lên tới mức đỉnh, qua khỏi mức đó sẽ có tác dụng ngược như giảm đầu tư, tăng trốn thuế,...


Phải như việc áp dụng mô thức Keynes có kết quả tốt đẹp trong mấy năm qua thì cũng chấp nhận được, cho dù là trong ngắn hạn. Nhưng thực tế cho thấy TT Obama đã chẳng thể nói là ông đã thành công phục hồi được kinh tế. Bằng chứng hiển nhiên nhất là tỷ lệ thất nghiệp, sau hơn bốn năm áp dụng thuyết tân Keynesian, vẫn lửng lơ ở mức kỷ lục trên dưới 8%.

Một bằng chứng không kém hiển nhiên nữa là trong suốt mùa tranh cử, TT Obama đã sử dụng chiến thuật “đánh địch để thắng”, chứ không phải chiến thuật khoe thành quả của mình để thắng. Nếu để ý một chút, ta sẽ thấy TT Obama không hề khoe các thành tích như Obamacare hay phục hồi kinh tế trong cuộc vận động tranh cử, mà trái lại chỉ đặt trọng tâm vào việc đả kích tấn công ông Romney, mang hình ảnh một tài phiệt vô cảm ra hù dọa thiên hạ qua hàng trăm triệu tiền quảng cáo tô vẽ ông Romney như ác qủy. Có nghiã là chính TT Obama cũng không thấy thành quả gì đáng khoe trong vấn đề phục hồi kinh tế.

Dù vậy, TT Obama và khối cấp tiến vẫn không chấp nhận thực tế, mà vẫn ôm cứng lập luận của ông Keynes.

Sách lược này sẽ được thử thách qua cuộc bầu cử giữa mùa vào cuối năm tới, 2014. TT Obama thì vẫn rất tự tin, nhưng các chuyên gia chính trị và chiến lược gia của cả hai đảng, nhất là đảng Dân Chủ, đã không lạc quan như tổng thống.

Cử tri đi bầu tổng thống và cử tri đi bầu giữa mùa cho các trách nhiệm khác, là hai khối cử tri khác nhau hoàn toàn. Trong cuộc bầu tổng thống, cá nhân TT Obama đã thu hút được phiếu của các khối dân thiểu số, giới trẻ, và giới phụ nữ, hồ hởi đi bầu cho ông. Trong cuộc bầu giữa muà, thiên hạ không còn bầu tổng thống nữa, mà chỉ bầu các trách nhiệm dân cử khác, nhất là các dân biểu và nghị sĩ vào quốc hội. Không còn TT Obama cũng có nghiã là mất đi sự thu hút lớn đối với khối cử tri của ông, và khối này có nhiều hy vọng sẽ... ngồi nhà, không đi bầu. Trong khi khối đối lập thì muốn lợi dụng sự vắng mặt đó để kiếm phiếu vào quốc hội để có dịp khoá tay tổng thống. Khối đối lập Cộng Hoà có nhiều hy vọng có nhiều cử tri đi bầu hơn, đưa đến sự thắng thế của họ.

Đây là sự thật chẳng những cho chính quyền Obama, mà cũng cho hầu hết các chính quyền trước. Trên căn bản, các bầu cử giữa mùa luôn mang lại chiến thắng cho phe đối lập với tổng thống đương nhiệm. TT Obama đã nếm mùi đó năm 2010 khi Cộng Hòa chiếm thêm 63 ghế và nắm đa số kiểm soát Hạ Viện.

Bây giờ, TT Obama muốn đi vào lịch sử với một gia tài cấp tiến hơn cả gia tài của TT Johnson, nhưng thái độ cứng rắn hơn bao giờ hết có thể sẽ là mối nguy lớn nhất cho các dân cử của đảng Dân Chủ. Thái độ cứng ngắc đó đã đưa đến bế tắc quy mô trong chính quyền Mỹ, chẳng giải quyết được chuyện gì, chẳng thông qua được luật quan trọng nào từ sau 2010. Chính trị là phải hai chiều, gọi là “có qua có lại mới toại lòng nhau”, mới làm ra chuyện được.

Dân Mỹ đã nhìn thấy rõ những bế tắc hiện nay, điển hình là vụ ngân sách cắt giảm qua “sequester”. Dĩ nhiên là cả hai đảng đều mang trách nhiệm, nhưng dù sao thì tổng thống vẫn là tổng thống, vẫn là người cuối cùng chịu trách nhiệm cho cả chính quyền. Một tổng thống giỏi sẽ tìm được thoả hiệp để làm một cái gì, trong khi một tổng thống dở chỉ biết ngồi than thân trách phận hay đổ thừa. Trong mùa bầu cử tới TT Obama không ra tranh cử, nhưng cả trăm dân biểu và nghị sĩ trong đảng Dân Chủ cầm quyền sẽ phải ra tranh cử, đối đầu với cử tri, và giải thích bế tắc.

Đề nghị tăng thêm cả ngàn tỷ chi tiêu của khối cấp tiến cực đoan chỉ tăng thêm lo ngại của cử tri và gây khó khăn hơn cho các vị dân cử Dân Chủ muốn giải thích bế tắc và kiếm phiếu. Tuy mâu thuẫn giữa khối đa số cấp tiến ôn hoà và khối cấp tiến cực đoan chưa nổ bùng ra như mâu thuẫn giữa bảo thủ ôn hoà và bảo thủ cực đoan bên Cộng Hòa, nhưng người ta cũng đã thấy rõ sự phân hoá trong nội bộ Dân Chủ và ảnh hưởng lớn mạnh của khối cực đoan, được sự cổ võ gián tiếp của TT Obama.

Tính cực đoan này đã khiến ông Ted Van Dyk, một trong những chiến lược gia hàng đầu của đảng Dân Chủ từ mấy thập niên qua, đã phải lên tiếng than phiền ông không còn nhận ra đảng Dân Chủ của ông nữa (My Unrecognizable Democratic Party). Ông mô tả TT Obama là “kẻ tạo đoàn kết của năm 2008 đã trở thành một người tạo phân hoá có tính toán (calculated divider) của năm 2012”, và chiến lược bất hợp tác và bôi bác đối lập của TT Obama thuộc loại “chính trị hạ cấp” (low politics).

Nếu một chiến lược gia của đảng mà có những nhận định như vậy, thì người ta có quyền thắc mắc khối cử tri nói chung, nhất là khối cử tri độc lập không thuộc đảng nào sẽ nghĩ sao? Theo các thăm dò mới nhất, hậu thuẫn của TT Obama đang tuột dốc mạnh, nhất là sau khi dân Mỹ thấy những hù dọa về chuyện cắt chi tiêu qua sequester đã chẳng xẩy ra. Chuyện hàng trăm ngàn công chức bị sa thải, hay chuyện tầm thường như các chuyến bay sẽ bị chậm trễ hàng loạt, hay chuyện quan trọng hơn là cả ngàn trẻ em sẽ không được điều trị vì thiếu nhà thương, v.v..., tất cả những hù dọa đó đã được chứng minh chỉ là hù dọa hão. Uy tín của TT Obama đã sứt mẻ không ít.

Theo thăm dò của chính báo phe ta Washington Post, trước ngày sequester xuất hiện, TT Obama được hơn 60% dân Mỹ tin tưởng có khả năng giải quyết khó khăn kinh tế, so với chưa tới 40% cho đảng Cộng Hòa. Sau khi những hù dọa về sequester không thành sự thật, tỷ lệ tin tưởng vào khả năng giải quyết vấn nạn kinh tế của TT Obama chỉ còn 44%, ngang với mức của đảng Cộng Hoà.

Những con số này đang làm các chính khách Dân Chủ lo xót vó khi nhìn vào lịch bầu cử. Chẳng những đảng Dân Chủ có ít hy vọng chiếm lại đa số trong Hạ Viện, mà lại còn có nguy cơ mất luôn thế đa số tại Thượng Viện.

Tại Thượng Viện, đảng Cộng Hoà chỉ cần thắng thêm 6 ghế là sẽ nắm đa số. Trong khi đó, có 5 thượng nghị sĩ Dân Chủ phải ra tranh cử lại trong năm tiểu bang bảo thủ đã bỏ phiếu cho TĐ Romney (Alaska, Arkansas, Louisiana, North Carolina, Montana). Hai thượng nghị sĩ Dân Chủ từ chức tại hai tiểu bang đã bầu thống đốc Cộng Hòa (Michigan, Iowa). Hy vọng chiếm đa số tại Thượng Viện của Cộng Hoà là sự thật đáng đau đầu cho đảng Dân Chủ, nhất là trong tình trạng tổng thống của đảng Dân Chủ tiếp tục dấn thân mạnh vào con đường cấp tiến cực đoan làm cho nhiều cử tri lo sợ.

Nhìn vào sự kiện trên, cũng như nhìn vào ảnh hưởng ngày một lớn mạnh của các dân cử khuynh hữu được hậu thuẫn của các nhóm Tea Party bên Cộng Hoà, ta thấy chính trường Mỹ càng ngày càng phân hoá, càng bị các nhóm cực đoan chi phối. Có lẽ đó mới chính là gia tài lớn nhất mà TT Obama sẽ để lại cho hậu thế: một chính trường phân hóa hơn bao giờ hết trong khi ông đắc cử với chiêu bài đoàn kết lưỡng đảng. Một mỉa mai lịch sử. (24-03-13)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.