Hôm nay,  

Khái Niệm Mới Về Dịch Thuật

3/6/202209:38:00(View: 3975)

Capture

(Lược và trích trong chương một của The Theory and Practices of Translation của Eugene A. Nina và Chaeles R. Taber. Bản dịch ở Hoa Kỳ xuất bản 1982 bởi E.J. Brill, Leiden, trong chương trình Helps For Translation. )

Giới thiệu:

Những ai thích dịch hoặc thích đọc bài dịch từ kho tàng chữ nghĩa của thế giới, xin mời đọc bài này.

 

LỜI DẪN:

Bài viết tuy có nội dung dịch thuật về kinh thánh, nhưng khái niệm tổng quát về dịch áp dụng chung cho nghệ thuật dịch, được phát triển mạnh mẽ trong nửa phần sau của thế kỷ 20 và phổ biến sâu rộng sang thế kỷ 21 vào những lãnh vực dịch khác nhau, nhất là văn chương và văn hóa.

Xin nhắc rằng, hệ thống dịch lớn nhất và dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau nhất trên thế giới là hệ thống dịch kinh thánh của giáo hội La Mã. Vì vậy, kinh nghiệm lý thuyết, kinh nghiệm thực hành, kinh nghiệm nghệ thuật dịch của họ dày, rộng, và sâu. Một trong vài người dẫn đầu hệ thống dịch này là Eugene A. Nina.

Dịch thuật ở Việt Nam thừa hưởng từ nền dịch thuật của Pháp từ nửa đầu thế kỷ 20, nay đã xưa cũ và có nhiều phần trong lý thuyết cùng phương pháp dịch đã lỗi thời. Dịch sát theo ý tác giả và dịch sát theo ngôn ngữ của bản gốc là hai việc khác nhau, nếu chưa nhận định được khái niệm này, nên suy xét lại. Dịch bám sát theo bản gốc là quan niệm truyền thống, nay, đã không còn là ưu điểm hàng đầu. Nhất là dịch thơ. Giỏi ngôn ngữ chưa hẳn là người dịch đáng tin cậy.

Những việc ấy tuy quan trọng nhưng chưa quan trọng bằng ý muốn dịch và ý “chê dịch” của một số người biết dịch. Ý muốn dịch theo quan niệm của mình là đúng, vì mình sẽ chịu trách nhiệm với phẩm chất và nghệ thuật dịch, tuy nhiên, không thể kết luận phương pháp dịch của mình là độc tôn, đứng nhất thiên hạ. Ý “chê dịch” là ý sai lầm. Vì bản chất của dịch là sai, nên dịch giỏi là làm giảm bớt lỗi và dịch hay là thay thế bớt những lầm lẫn, nhưng không có bản dịch nào hoàn hảo, 100% theo ý tác giả.

Người Việt cần đọc nhiều văn bản dịch trong mọi lãnh vực để nhận ra những điều hay, lẽ phải, những gì cần phải biết từ sức khỏe, khoa học, kinh tế, chính trị, xã hội , tâm lý, văn hóa, văn chương, văn học, quân sự, vật lý, hoá học … tóm lại là tất cả những gì giúp cho trí tuệ và tâm tư của chúng ta đào sâu mở rộng và bừng lên ánh sáng của thế giới.

Tôi đề nghị các bạn có khả năng dịch cứ dịch, thời gian sẽ loại bỏ những gì không đúng, không phù hợp, nhưng không cần phải chỉ trích nhau về bản dịch. Nếu thấy dịch không “đúng” theo ý mình, thì mình dịch một bản khác, “đúng” hơn, để người đọc giám định và học hỏi. Có câu, “chỉ trích là rẻ tiền, hành động là đầu tư.” Người đọc có trình độ đều có thể nhìn thấy: hành động vạch lá tìm sâu, lòng tỵ hiềm, và bóng tối âm u trong lời chỉ trích thiếu hiểu biết. Thay vì mất thời giờ vạch cỏ tìm gai, sao không trồng cây hoa, cây ăn trái?

(Ghi: Chữ thẳng là bản dịch từ bản gốc. Chữ nghiêng là lời của người dịch. Và tôi xin trình bày theo lối bản viết rời.)

 

1.

Chưa bao giờ trong lịch sử thế giới lại có nhiều người tham gia vào việc dịch thuật về cả hai mặt: thế tục và tôn giáo. Người ta ước tính, ít nhất khoảng 100. 000 người dành phần lớn hoặc toàn bộ thời giờ cho công việc này. […] Thật không may, lý thuyết cơ bản về dịch đã không bắt kịp sức phát triển của các kỹ năng. Đối với việc phiên dịch của tôn giáo, mặc dù nhiều tài năng thánh hiển và nỗ lực tận tụy, sự hiểu biết đã bị lỗi thời so với khả năng dịch thuật trong các lãnh vực thế tục. […] Sự nhận định có vẻ ta thán của Nina, vì ông nhìn ra những thay đổi của nghệ thuật dịch bên ngoài tôn giáo. Không bị bó buộc bởi những giáo điều, các học giả khác, cùng thời, đã đưa ra những ý niệm và phương pháp dịch phù hợp thời đại, tự do hơn và mỹ thuật hơn.      

2. TRỌNG TÂM KHÁC BIỆT GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ TÂN THỜi.

Theo trọng tâm cũ, việc dịch là hình thức của thông điệp, và người dịch thích thú vào phần tái tạo các đặc điểm về văn phong, ví dụ nhịp điệu, vần, cách chơi chữ, những ngữ pháp khác thường … Trong khi, trọng tâm mới di chuyển từ hình thức của thông điệp to sự phản hồi của người cảm nhận. Nghĩa là, điều để người ta quyết định là phản hồi của người đọc đối với thông điệp. (Một ví dụ thú vị, tuy là một trường hợp đặc biệt, nhưng nếu trải rộng ra, đó là những khó khăn bình thường gặp phải khi dịch: Trong kinh thánh có đoạn kể lại chuyện Chúa Giê-Su chữa bệnh người bị quỉ ám, khi đuổi con quỉ ra khỏi người bệnh, trông thấy đàn heo đi qua, Chúa đuổi quỉ nhập vào đàn heo chạy xuống vực sâu. Nếu dịch đúng bản gốc, vào trong xứ đạo Hồi thờ phượng con heo, thì kinh thánh sẽ bị tẩy chay. Vì mục đích truyền đạo quan trọng hơn, người dịch đổi đàn heo thành đàn cừu, đàn dê. Quỉ nhập vào cừu, vào dê thì không xâm phạm đến tín ngưỡng Hồi giáo. Thời đại hôm nay cho phép dịch được thay đổi theo mục đích và văn hóa để mang lại ích lợi, không nhất thiết phải bám theo ý tác giả.)  

Sự phản hồi này sẽ được so sánh với sự phản hồi của nguyên bản, tức là sự cảm nhận qua hình thức thông điệp.

Nếu câu hỏi cũ là: Đây có phải là một bản dịch chính xác không? Bây giờ, phải trả lời thêm một câu hỏi: …bản dịch chính xác cho ai? Tính chính xác được xác định bởi mức độ mà người đọc “trung bình” trong văn bản dịch mà dịch giả muốn họ có thể hiểu một cách chính xác. Chúng tôi không chỉ quan tâm đến khả năng hiểu đúng của người đọc, mà còn có khả năng lôi cuốn thú vị. Nói một cách khác, không chỉ đơn thuần dịch nội dung để người đọc trung bình hiểu được thông điệp, hơn nữa, chúng tôi muốn bảo đảm, họ khó có thể hiểu lầm.

Đặt câu hỏi vế tính đúng chính xác theo kiểu này, đương nhiên ngụ ý sẽ có một số cách dịch khác nhau, có thể gọi là “đúng” (hoặc tiếp cận sát sự đúng.) Trong thực tế, đối với các học giả đã hiểu rõ bản gốc, ngay cả bản dịch theo nghĩa đen, tốn nhiều công sức, cũng là bản “đúng” (theo nghĩa tiếp cận sát,) họ không lầm lẫn. Mặt khác, trong hầu hết các cộng đồng ngôn ngữ lớn, đặc biệt khi họ áp dụng ngôn ngữ quốc tế mà hàng triệu người sử dụng, sẽ có một số trình độ văn hóa xã hội khác nhau về khả năng nói và hiểu. Nghĩa là, cần phải đòi hỏi một số cấp độ dịch khác nhau về từ vựng, cấu trúc ngữ pháp, để mọi người có cơ hội căn bản đồng đều cảm hiểu thông điệp trong bản dịch. […]

Ông Nina phát biểu khá rõ ràng về sự “đúng”, nhiều cách dịch khác nhau, đều “đúng”. Nghe có vẻ rất nghịch lý, nhưng nếu xét về mặt phức tạp của các ngôn ngữ khi đối chiếu sẽ có sự chọn lựa giữa: đồng nghĩa, tương đương, tương xứng, tương ứng, để dùng vào văn bản dịch cho rõ cho hay theo ý dịch giả, (có nghĩa, trình độ hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi dịch giả sẽ xác định giá trị bản dịch), thì “ tiếp cận đúng”, nhiều cách đúng, có ý nghĩa hơn là “sai.” Quan điểm này ủng hộ nghệ thuật dịch trăm hoa đua nở. Trong đoạn này, Nina còn nhắc đến, “một bản dịch cũng có thể nặng về mặt văn phong  đến mức gây ra khó hiểu.” Câu nói này nhắc nhở một số người dịch quá chú trọng theo sát văn phong của tác giả, nghĩa là bám sát cấu trúc ngữ pháp và từ vựng để đồ lại (copy) nhan sắc của văn bản gốc, nếu tạo ra một văn bản khó hiểu hoặc không thể hiểu, thì vô ích. Nhất là dịch thơ, không nhất thiết phải bám trụ thể thơ và bắt chước câu thơ.

3. THÁI ĐỘ MỚI TÔN TRỌNG NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI ĐỌC.

Một số vấn đề trở ngại trong việc dịch (kinh thánh hoặc áp dụng vào dịch văn bản thế tục) có thể bắt nguồn từ thực tế: người ta thường có quan điểm khá lầm lẫn về người đọc cũng như các ngôn ngữ gốc. Vì vậy, để dịch các văn bản tiếp cận mục đích tương đương sự phản hồi, người dịch cần thay đổi quan niệm về ngôn ngữ mà họ đang dịch. Điều này không chỉ bao gồm thay đổi một số thái độ có khuynh hướng đặt ngôn ngữ gốc lên bệ thần học (xem trọng, bất di bất dịch không thể thay đổi) cúi đầu tôn thờ một cách mù quáng, mà đòi hỏi phải triệt để suy nghĩ lại thái độ đối với ngôn ngữ của người đọc, ngay cả khi nó là tiếng mẹ đẻ của mình. (Nói dễ hiểu hơn, không thể quá tôn trọng ngôn ngữ gốc của tác giả một cách mù quáng, mà phải quan tâm đến ngôn ngữ của độc giả.)              



4. ĐẶC TÍNH RIÊNG CỦA MỖI NGÔN NGỮ.

Ngay từ đầu, điều cần thiết là phải nhận ra, mỗi ngôn ngữ đều có tính đặc sắc và huyền ảo của nó. Nghĩa là, mỗi ngôn ngữ sở hữu những đặc tính riêng biệt tạo ra cho nó một số sắc thái riêng tư. Ví dụ: khả năng thành lập chữ, những mẫu độc đáo của trật tự hành văn, kỹ thuật liên kết các mệnh đề thành câu, các dấu hiệu của diễn ngôn, và các kiểu diễn tả đặc thù của địa phương. Những điểm này hiện rõ trong thơ. (Chúng ta có thể chia sẻ quan điểm trên dễ dàng, cứ nhìn vào thế giới ngôn ngữ, sẽ thấy ngay ngôn ngữ chia ra một số vùng chữ viết, như vùng chữ tượng hình của Trung quốc, vùng chữ abc phát xuất từ Ai cập và La mã, vùng chữ “siêu thực” tiếng Phạn … Mỗi vùng chia  nhánh ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, và mỗi ngôn ngữ gắn liền với địa lý, phong thổ, cá tính dân tộc, lịch sử, của mỗi địa phương, phát sinh những đặc tính khác biệt.)

Để thông đạt có hiệu quả, người ta phải tôn trọng sự tinh túy của mỗi ngôn ngữ.

Thay vì than phiền về việc thiếu một số đặc tính trong một ngôn ngữ, người dịch nên tôn trọng những đặc điểm trong ngôn ngữ của người đọc và khai thác tiềm năng của ngôn ngữ đó ở mức độ cao nhất có thể áp dụng. […] Đơn giản, người ta phải chấp nhận trong thực tế, có nhiều ngôn ngữ không có (hoặc không muốn) sử dụng giọng thụ động. Đơn thuần, họ chỉ tường trình các hành động như là các hoạt động. Thay vì cưỡng ép những cấu trúc chính thức của ngôn ngữ này lên ngôn ngữ khác, người dịch giỏi đã chuẩn bị kỹ để dịch thay đổi bất kỳ các cấu trúc chính thức nào cần thiết để tái tạo những thông điệp, thông tin, ở dạng cấu trúc đặc biệt của ngôn ngữ độc giả.

Bất cứ điều gì có thể nói bằng ngôn ngữ này, đều có thể nói bằng ngôn ngữ khác, trừ khi hình thức đó là một yếu tố tinh chất của thông điệp.

Đối với người bình thường, tiềm năng và sự tương đương trong thực tế của ngôn ngữ có lẽ là điểm tranh luận nhiều nhất về dịch thuật. Sẽ rất khó hiểu, nếu một người chưa bao giờ thấy tuyết lại có thể hiểu một đoạn kinh thánh nói về “trắng như tuyết”. […] Ví dụ trên cho thấy, nếu độc giả không có kinh nghiệm về một sự việc gì trong ngôn ngữ bản gốc, khi đọc bản dịch, dù dịch hay, dịch đúng, họ vẫn không thể cảm nhận hoặc chia sẻ. “Tuyết” là vật cụ thể, thực tế, có thể thấy qua báo chí, hình ảnh, dù chưa thực sự đối diện với tuyết. Nếu là một sự kiện, hình tượng trừu tượng, hoặc ý tưởng mà độc giả chưa biết bao giờ, đương nhiên họ không thể lãnh hội. Điều này áp dụng vào câu văn, có rất nhiều ngôn ngữ xây dựng câu văn khác với ngữ pháp quen thuộc của độc giả, thấy rõ nhất là trong dịch thơ, vì vậy, có sự cân nhắc và lựa chọn trăn trở khi thay đổi thể thơ và cách cấu trúc trong câu thơ.  

Tuy nhiên, phải nói rằng, nếu hình thức (cách diễn tả) thông điệp là yếu tố thiết yếu cho ý nghĩa của nó, thì rõ ràng có một giới hạn trong việc truyền đạt ý nghĩa từ bản gốc sang bản dịch. Thông thường không thể tái tạo loại ý nghĩa này. Ví dụ, trong chương thứ ba của John. Chúa Giê-Su nói về “gió/wind” và “thánh linh/Spirit”. Trong tiếng Hy lạp “pneuma” dùng cho cả hai ý nghĩa. Điều này dẫn đến cách chơi chữ quan trọng, nhưng không thể minh bạch dịch sang Anh ngữ. Trong trường hợp này cần ghi chú bên lề để độc giả biết một từ vựng của bản gốc mang hai ý nghĩa khác biệt. (Dịch một văn bản khó mà không có ghi chú hoặc giải thích gì, có nghĩa là người dịch hoặc quá tự tin hoặc xem thường phẩm chất dịch.)  

Trong tinh thần đó, người dịch gặp khó khăn, gần như không thể, tái tạo nhịp điệu, vần điệu của thơ và nhất là những nét đặc sắc hoặc đặc thù của bài thơ và những ám chỉ có chủ đích. Ở thời điểm này, ngôn ngữ mất khả năng tương ứng, người dịch phải chuẩn bị hy sinh một số hình thức (cách diễn đạt) hay đẹp nào đó vì ích lợi chung của nội dung. Nghĩa là, để bảo toàn nội dung của thông điệp, hình thức diễn đạt phải thay đổi. (Lập luận chính xác) Nếu tất cả ngôn ngữ khác nhau về hình thức, và đây là bản chất khác biệt của ngôn ngữ, thì hoàn toàn tự nhiên các hình thức diễn đạt phải thay đổi để bảo toàn nội dung. […] Lập luận này trở thành định đề trong dịch thuật, biểu lộ rõ rệt nhất trong thơ, lời nhạc, và văn bản triết học. Đa số những phê phán về dịch sai rơi vào những trường hợp này. Sự chọn lựa để hy sinh một số hình thức ngôn ngữ, kể cả ý và tứ để bảo toàn nội dung hoặc giữ gìn tinh túy bản gốc của mỗi dịch giả, sẽ khác nhau và dĩ nhiên khác với chọn lựa của người phê phán. Trong lãnh vực dịch thuật, nhất là dịch văn bản văn chương, sự phê phán thường biểu lộ sự thiếu hiểu biết, sự tự tin cường điệu, hơn là đúng hoặc sai. Đơn thuần, cá nhân đó tự cho mình quyền tối cao phê chuẩn ngôn ngữ.

Xin ghi nhận rằng, dịch giả thường không có nhiều danh vọng. Những dịch giả giỏi đã là tác giả hoặc nhanh chóng trở thành tác giả. Cho dù là ai, khi dịch, người đó trở thành kẻ phục dịch, người trung gian chuyển tiếp nội dung và hình thức bản gốc sang một khối văn bản dịch. Công việc này thường bị chê hơn là khen. Dịch giả là một phó thường dân của tác giả, đồng thời là người phục vụ nơi bàn ăn chữ nghĩa của độc giả, hầu hết mọi hầu hạ trong các bữa ăn đều không có tiền típ.

Vì bản chất tinh túy của ngôn ngữ, và ngôn ngữ thế giới chia ra nhiều dòng dõi khác biệt. Khi dịch các ngôn ngữ trong cùng một dòng dõi thì sự thay đổi hình thức diễn đạt ít hơn, dễ hơn đối với dịch ngôn ngữ khác dòng dõi. Ví dụ dịch tiếng Spanish sang tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức thì thuộc vào trường hợp dịch thuật trong cùng đại gia đình. Nếu dịch tiếng Anh sang tiếng Iran, Ả rập … sự thay đổi hình thức diễn tả sẽ thường xuyên và đôi khi không thể nào phiên dịch. Còn nếu như dịch tiếng Batu Phi châu qua tiếng Anh, sẽ còn phải quyết liệt hơn để chọn lựa những gì có thể chuyển dịch. Tiếng Anh là tiếng thông dụng, tự bản thân đã chất chứa những kinh nghiệm thay đổi mang tính toàn cầu, Còn như dịch các ngôn ngữ khác sang tiếng Việt, khó khăn lên đến bội phần. Tuy nhiên, khi gặp thực khách khó tính, khó chịu, nói năng khó hiểu, không lẽ người hầu bàn bỏ việc ra về?

5. THÁI ĐỘ MỚI LIÊN QUAN ĐẾN NGÔN NGỮ GỐC.

Thái độ dịch mới quan tâm đến ngôn ngữ người đọc chắc chắn ngụ ý một cách nhìn mới về ngôn ngữ gốc. […] 

Người dịch phải cố gắng tái tạo ý nghĩa của mỗi đoạn văn theo ý hiểu biết của người viết. Nguyên tắc cố gắng tái tạo ý nghĩa một đoạn văn mà người viết hiểu một cách tự nhiên không cần phải nói, nhưng ở đây vẫn có nhiều điều người ta đáng thắc mắc. Ví dụ, một số người nhấn mạnh việc dịch tiếng Hy  Lạp trong Tân Ước, phải trở về với ngôn ngữ Aramaic để hiểu rõ Chúa Giê-Su đã nói gì trong ngôn ngữ này. Nói một cách khác, điều người viết hiểu dễ dàng, sau một thời gian dài, không hẳn là những gì người đọc có thể lãnh hội rõ ràng. Cứ như Kinh Thi đã được Khổng Tử san định, được các cao nhân giảng giải, được Nguyễn Hiến Lê bàn soạn, nhưng đến đời cháu của chúng ta, họ dễ gì cảm nhận những thâm thúy mà cha mẹ chúng ta từng vỗ tay tán thưởng? Dịch không dễ dàng, đơn giản, chuyển chữ này sang chữ kia, giải ý này qua ý nọ, mà chủ yếu vấn đề đa văn hóa và văn hóa khác biệt qua thời đại. Trước thời Chúa Giê-Su cụm từ “cổng trời” chỉ định một nơi biệt giam trên đỉnh núi không có đường xuống. Đến đời Tân Ước, “cổng trời”, trở thành cửa thiên đàng, dịch giả biết dịch làm sao?

 

Hết chương Một. Mời đọc chương Hai: The Nature of Translating của  Eugene Nina trong lần sắp tới. 

Ngu Yên

 

 

 

 

 

 

 

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Thuế quan — thứ từng vắng bóng trên mặt báo suốt nhiều thập niên — nay trở lại trung tâm chính sách kinh tế Hoa Kỳ, trong lúc Tối Cao Pháp Viện đang xét tính hợp hiến của các mức thuế toàn cầu do Tổng thống Donald Trump ban hành. Bài viết dưới đây, theo phân tích của Kent Jones, giáo sư kinh tế danh dự Đại học Babson, đăng trên The Conversation ngày 11 tháng 12 năm 2025, nhằm giải thích cặn kẽ thuế quan là gì, ai thực sự gánh chịu, và vì sao vấn đề này đang tác động trực tiếp đến túi tiền và tương lai kinh tế nước Mỹ. Thuế quan, nói gọn, là thuế đánh lên hàng hóa nhập cảng. Khi một công ty Hoa Kỳ nhập hàng từ nước ngoài, Cơ quan Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ sẽ gửi hóa đơn thuế; doanh nghiệp phải nộp đủ thì hàng mới được thông quan. Trên giấy tờ, người trả thuế là nhà nhập cảng. Nhưng trên thực tế, phần lớn chi phí ấy được chuyển thẳng sang người tiêu dùng qua giá bán cao hơn — từ thực phẩm, xe cộ cho đến quà tặng cuối năm.
Vào những ngày cuối tháng Tám của năm 2025, tôi cùng hai đồng nghiệp đã quyết định từ bỏ chức vụ tại Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC). Chúng tôi ra đi vì không thể tiếp tục im lặng khi chứng kiến tính liêm chính khoa học ngày một xói mòn, còn cơ sở hạ tầng y tế công cộng của quốc gia cứ dần rệu rã dưới sự lãnh đạo của Robert F. Kennedy Jr., Bộ trưởng Bộ Y tế và Nhân sinh (HHS). Khi đó, chúng tôi đã khẩn thiết kêu gọi Quốc Hội, các tổ chức chuyên ngành và các bên liên quan trong lĩnh vực y tế công cộng hãy can thiệp trước khi xảy ra những thiệt hại không thể cứu vãn. Tôi rời đi với niềm tin mọi thứ rồi sẽ được chấn chỉnh.
Khi nhìn bản đồ thế giới và duyệt xét lịch sử hình thành, chúng ta nhận thấy có rất nhiều điểm tương đồng giữa Canada và Úc Đại Lợi.
Người Việt miền Nam từng trải qua một bài học cay đắng: sau 1975, những lời nói về “thống nhất” và “hàn gắn” không bao giờ đi cùng sự nhìn nhận. Không một lời chính thức nào nhắc đến các trại cải tạo, những cuộc tước đoạt, hay những đời sống bị đảo lộn dưới tay những người nhân danh chiến thắng. Không có sự thật, hòa giải chỉ là chiếc khẩu hiệu rỗng. Câu chuyện nước Mỹ hôm nay, khi chính quyền muốn làm mờ các chứng tích về chế độ nô lệ, cho thấy một điều quen thuộc: không quốc gia nào trưởng thành bằng cách giấu đi phần tối. Sự thật không tự biến mất chỉ vì người ta muốn quên.
Hai mươi năm trước, Thống đốc Jeb Bush ký đạo luật “stand your ground” (đứng vững tại chỗ), được giới ủng hộ xem là một biện pháp chống tội phạm dựa trên “lý lẽ thường tình”. Lời hứa khi ấy: bảo vệ người dân tuân thủ pháp luật khi họ dùng vũ lực để tự vệ. Sau vụ George Zimmerman được tha trong cái chết của Trayvon Martin, đồng bảo trợ dự luật, dân biểu Dennis Baxley, vẫn bảo rằng “trao quyền” cho người dân sẽ giúp chặn bạo lực.
“Di sản, còn có thể mang hình thức phi vật thể của lối nghĩ, lối sống, lối hành động, mà con người miền Nam khi xưa đã được trau dồi, hun đúc qua tinh thần của thể chế, của một nền dân chủ hiến định. Chính con người, chính cộng đồng xã hội mới là trung tâm và cũng là cội nguồn lẫn mục đích của mọi bản hiến pháp.” – Hải Sa, “Ngót 60 năm từ một khế ước nhân quyền dang dở,” trang 56 Cùng với tin tạp chí Luật Khoa vừa được đề cử giải thưởng Tự Do Báo Chí năm 2025 của Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, ban chủ trương trong một thư tới độc giả vào cuối tháng 10 đồng thời thông báo việc phát hành ấn bản đặc biệt với chủ đề “70 Năm Việt Nam Cộng Hòa – Chân Dung & Di Sản” gồm 86 trang, với 14 bài vẽ lại hành trình từ ra đời tới bị bức tử của nền dân chủ duy nhất của Việt Nam và di sản của thể chế yểu mệnh này để lại. Bài này nhằm điểm qua nội dung của ấn bản đặc biệt này, và sẽ chú trọng vào một bài đã gợi nơi người viết một suy tư sâu sắc.
Một nhóm sử gia, thủ thư và tình nguyện viên đang gấp rút chạy đua với thời gian – và với chính quyền Trump – để giữ lại những mảnh ký ức của nước Mỹ.Từ hình ảnh người nô lệ bị đánh đập, các trại giam người Mỹ gốc Nhật trong Thế Chiến II, đến những bảng chỉ dẫn về biến đổi khí hậu ở công viên quốc gia, tất cả đều có thể sớm biến mất khỏi tầm mắt công chúng. Trong vài tháng gần đây, hơn một ngàn sáu trăm người – giáo sư, sinh viên, nhà khoa học, thủ thư – đã âm thầm chụp lại từng góc trưng bày, từng bảng giải thích, để lập ra một kho lưu trữ riêng tư. Họ gọi đó là “bản ghi của công dân” – một bộ sưu tập độc lập nhằm bảo tồn những gì đang tồn tại, trước khi bị xoá bỏ bởi lệnh mới của chính quyền.
Hai trăm mười một năm trước, mùa hè năm 1814, quân Anh kéo vào Washington. Trước khi phóng hỏa Bạch Ốc, họ ngồi xuống dùng bữa tại bàn tiệc đã dọn sẵn cho Tổng thống James Madison. Khi bữa ăn kết thúc, lính Anh đốt màn, đốt giường, và tòa nhà bốc cháy suốt đêm. Sáng hôm sau, cơn mưa lớn chỉ còn rửa trôi phần tro tàn của nơi từng là biểu tượng cho nền cộng hòa non trẻ. Tuần này, phần Cánh Đông của Bạch Ốc bị phá sập. Không phải bởi ngoại bang, mà bởi chính quyền tại vị. Và lần này, không ai được báo trước. Người Mỹ chỉ biết chuyện qua những bức ảnh máy xúc cày nát nền nhà, cùng lời xác nhận ngắn ngủi từ các viên chức trong chính phủ.
Hai trăm năm rưỡi sau ngày dựng cờ độc lập, nước Mỹ vẫn chưa thoát khỏi chiếc bóng của bạo lực. Mỗi khi một viên đạn nổ, người ta lại nói: “Đây không phải là nước Mỹ.” Nhưng chính câu nói ấy lại là cách người Mỹ tránh nhìn thẳng vào chính mình. Bài viết của giáo sư Maurizio Valsania (Đại học Torino), đăng trên The Conversation ngày 12 tháng 9, 2025, nhắc lại lịch sử mà nhiều người muốn quên: từ nhựa đường và lông gà đến súng ngắn buổi bình minh — một mạch dài nối liền hai thế kỷ, nơi tự do và bạo lực chảy cùng dòng máu.
Một cuộc thăm dò dư luận của AP-NORC thực hiện vào tháng 9 & 10 cho thấy hầu hết dân Mỹ coi việc chính phủ đóng cửa hiện tại là một vấn đề nghiêm trọng và đổ lỗi cho cả hai Đảng Cộng Hòa, Đảng Dân Chủ và cả Tổng Thống Trump với những tỷ lệ gần như ngang nhau. Cuộc thăm dò cũng cho thấy người Mỹ lo lắng về kinh tế, lạm phát và bảo đảm việc làm. Họ đang giảm những chi tiêu không thiết yếu như quần áo và nhiên liệu. Đa số cho rằng nền kinh tế yếu kém. Chi phí thực phẩm, nhà ở và chăm sóc sức khỏe được coi là những nguồn chính gây khó khăn tài chính.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.