Hôm nay,  

Giải Nobel Văn Chương 2025: Tia Sáng Giữa Thời Mạt Thế

09/10/202513:21:00(Xem: 2484)
12
Ảnh: László Krasznahorkai, nhà văn Hungary; tòa nhà Börshuset nơi công bố giải văn chương Nobel.


Có mặt ở Thụy Điển mùa thu 2025 khi giải Nobel Văn Chương được công bố là một cảm giác lạ kỳ khó tả. Ánh nắng tràn ngập khắp Stockholm, đến nỗi tòa nhà Börshuset cổ kính – nơi Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc tên người đoạt giải Nobel Văn Chương – cũng sáng rực như một thánh đường vừa được mở cửa sau cơn đại dịch tinh thần. Dù rèm nhung đã khép, ánh sáng đầu thu vẫn len qua từng khe cửa, soi lên những đường mạ vàng lấp lánh trên trần, trên tường, như thể lịch sử đang tự soi lại mình. Thứ ánh sáng ấy – lẻ loi, mỏi mệt, nhưng kiên định – vẫn sáng, bất chấp mọi bão tố quyền lực đã từng thổi qua bao thế kỷ.

Khoảng hai giờ trước khi Mats Malm, vị thư ký trầm tĩnh của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bước ra, thế giới vừa nghe tin: Israel và Hamas ký hiệp định hòa bình. Một mẩu tin nhỏ, nhưng làm cả hành tinh thở phào. Có lẽ, nếu tinh ý, người ta đã thấy khóe miệng vị sứ giả nhích lên một nụ cười như thể dành riêng cho nhân loại sau khi đã hứng chịu quá nhiều tuyệt vọng. Và rồi, cái tên được xướng lên: László Krasznahorkai, nhà văn Hungary – kẻ viết những câu văn dài như cơn hấp hối, nhưng mỗi chữ lại sáng rực như ngọn đèn dầu giữa đêm mất điện.

Một bất ngờ… mà thật ra chẳng mấy ai bất ngờ. Viện Hàn lâm Thụy Điển, như thường lệ, lại khiến người ta ngạc nhiên bằng cách không hề ngạc nhiên. Từ Kertész đến Müller, từ Aleksijevitj đến Fosse – những cái tên của hai thập niên qua đều là những kẻ đi ngược gió. Họ không tô son cho nhân loại, chỉ soi gương cho nó. Và hôm nay, Krasznahorkai nối tiếp truyền thống ấy: một người viết không để an ủi ai, mà để bóc trần thế giới trong lúc nó đang rệu rã.

Ông là nhà văn của thời đại này – một thế giới đang run rẩy bên bờ tận diệt. Hiện diện ở đó, văn chương Ông không để ca tụng mà để chứng giám. Mỗi chữ của ông như một hạt tro còn vương hơi ấm, còn thực tại quanh ta – những đám tro tàn nhưng vẫn âm ỉ chưa nguội. Với Krasznahorkai, tận thế không phải là ngày mai; nó đã bắt đầu từ lâu, chỉ là ta chưa nhận ra.

Sau một năm dạo bước tận Hàn Quốc, Viện Hàn lâm trở lại Trung Âu – nơi mỗi nhà văn viết như đang đi qua đổ nát của nền văn minh. Trong tác phẩm mới nhất Herscht 07769, ông dẫn người đọc qua một thành phố Đức nơi tượng Bach bị đập nát, và tư tưởng cực hữu mọc lên như cỏ dại giữa đống đổ nát của niềm tin. Cuốn sách dài 375 trang, chỉ có một câu duy nhất – một hơi thở kéo dài, một cơn mê sảng không hồi kết.

Dịch giả Daniel Gustafsson từng bảo: “Dịch văn của ông như trượt ván nước – lỡ chân là bị chữ cuốn đi mất.” Và đúng thế, Krasznahorkai không viết để người đọc hiểu, mà để họ bị nuốt chửng. Trong dòng chữ bất tận của ông, thời gian tự co cụm lại, còn thực tại thì trôi đi như mảnh vỡ bị hút vào lốc xoáy.

Văn chương của ông, như chính thời đại này, vừa khốc liệt vừa buồn cười. Mỗi câu chữ là tiếng vọng từ vực thẳm, nhưng lại thấp thoáng một nụ cười mệt mỏi – thứ hài hước chỉ dành cho những ai đã tuyệt vọng đủ lâu để biết rằng cười là cách duy nhất còn sót lại để sống.

Giải thưởng năm nay, nói cho đúng, không chỉ tôn vinh văn chương mà còn tôn vinh sự can đảm. Bởi quê hương ông – Hungary – đã trở thành biểu tượng của thứ độc tài khoác áo dân tộc. Krasznahorkai, bằng văn phong chậm rãi và cay nghiệt, đã nhiều lần vạch trần cái “giấc mơ hồi sinh huy hoàng” ấy. Ông nhắc ta nhớ rằng không có quá khứ vàng son nào để quay về – chỉ có những kẻ thua cuộc cố tô màu cho thất bại của mình. Một nửa nước Mỹ chắc không xa lạ gì với điều đó: chẳng có “vĩ đại” nào chờ ta ở cuối con đường, ngoài vực sâu của chính ảo tưởng.

Krasznahorkai không làm chính trị, nhưng văn của ông là một bản cáo trạng dành cho mọi chế độ tôn thờ sức mạnh và sợ hãi. Ông viết về cái giả trá của “dân tộc vĩ đại”, về con người bị nghiền nát trong cỗ máy lịch sử, về những kẻ đi tìm “vẻ đẹp thiêng liêng” giữa một thế giới đầy rác tinh thần. Ông từng nói: “Ở Hungary hôm nay, không còn hy vọng nào nữa. Nhưng tôi vẫn muốn viết để cho người tuyệt vọng còn một lý do để sống.”


Câu nói ấy nghe bi quan, nhưng thật ra lại đầy nhân bản. Vì chỉ ai tuyệt vọng mà vẫn còn yêu cuộc đời, mới hiểu thế nào là sự sống. Trong cùng ngày thế giới nghe tên Krasznahorkai, người ta cũng nghe tin Trung Đông có hòa bình, giải Nobel Hóa học được trao cho công trình biến khí độc CO₂ thành nước, và vài kẻ độc tài khác vẫn bắn hỏa tiễn ăn mừng. Một ngày vừa sáng vừa tối, vừa như phép lạ vừa như trò hề – y như một chương tiểu thuyết của chính ông.

Thật ra, trong truyện của Krasznahorkai, mọi chuyện đều như thế: phi lý nhưng có lý, tuyệt vọng nhưng vẫn đầy sinh khí. Một tiểu thuyết gia nhìn tận thế mà vẫn bật cười – có lẽ vì ông biết rằng tiếng cười là hình thức cuối cùng của trí tuệ.

Nếu ngày mai Donald Trump được trao Nobel Hòa bình, chắc hẳn Krasznahorkai sẽ mỉm cười – nụ cười vừa giễu, vừa hiền – bởi Ông biết rõ trò đùa của tạo hóa không bao giờ kết thúc.

Vì thế, giải Nobel năm nay, hơn mọi năm, là lời nhắc rằng giữa thời buổi mọi giá trị nhân thế đều có thể bị đo bằng quyền lực và mua bán bằng tiền, vẫn còn có những câu chữ biết soi sáng linh hồn.

Krasznahorkai từng viết: “Trong những ngày tăm tối nhất, ta vẫn có thể bật cười – vì chẳng còn gì khác để làm.” Một câu nghe ra như tuyệt vọng, mà lại là định nghĩa trọn vẹn của hy vọng.

Và có lẽ, trong ánh sáng chiều nay, khi Mats Malm đọc tên ông, người ta đã thấy điều ấy – thứ ánh sáng nhỏ bé, ngoan cường, vẫn len qua khe cửa nhân loại, để nhắc ta rằng văn chương, dù run rẩy, vẫn không tắt. Như thành phố Stockholm buổi chiều, vẫn nắng vàng chan hòa – bình thản dù thế giới xung quanh đang chênh vênh bên bờ tận diệt.

Bởi như Václav Havel từng nói: “Hy vọng không phải là tin rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn, mà là biết rằng, dù kết cục ra sao, vẫn còn điều gì đó đáng để tin." Có lẽ chính điều ấy, hơn cả giải thưởng hay vinh quang, là lý do để con người tiếp tục viết – và tiếp tục tin rằng, giữa những vết nứt của thế giới này, ánh sáng vẫn còn chỗ để lọt vào.

 

Nina HB Lê & Sớm Mai Lê biên tập

Thụy Điển, mùa thu 2025


 

*Đọc truyện ngắn của László Krasznahorkai, “Một Thiên Thần Lướt Trên Chúng Ta”, Ngu Yên dịch theo link dưới đây:
https://vietbaoonline.com/a323513/mot-thien-than-luot-tren-chung-ta

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bạn nghe một người nói, nhưng không lên tiếng, bạn suy nghĩ nhưng không bộc lộ. Bạn nén sự giận dữ xuống, bạn bôi xóa sự khinh bạc, bạn chờ cho những lời ca tụng giả dối lắng xuống, bạn giữ lại lời khen ngợi đối với một người xứng đáng thêm một ngày nữa, để nó được nung chín trong lòng.
Cầm cuốn sách mới trong tay, tôi lại nhớ có lần ở quán cafe, Trịnh Y Thư băn khoăn, không biết chúng mình in sách vào thời này có phải là chuyện vô ích không, có phải là quá mơ mộng không. Với đa số, nhất là thế hệ trẻ hơn thì có lẽ là cái gật đầu, nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi yêu quý cái vô ích, cái mơ mộng ấy. Tôi xin chia sẻ với quý vị cảm xúc rất riêng của tôi về sách. Nếu không có sách làm sao ta có thể cầm được trên tay cái vật thể nhỏ bé này, một thành quả nhìn bắng mắt cầm bằng tay, chứa đựng trong đó những con chữ đồng hành cùng những phút giây cảm hứng. Không có sách làm sao tôi có thể cảm nhận được trọn vẹn cái sức nặng của hạnh phúc hữu hình trên trang giấy với những dòng chữ ký tặng này? Và khi đọc sách, nghe được tiếng sột soạt khi lật trang giấy, ngửi được mùi giấy mới và cả mùi hương của sáng tạo. Một khi không còn ai in sách nữa thì những tủ đựng sách đẹp đẽ sẽ là món đồ cổ chứng nhân một thời kỳ sách huy hoàng. Và nếu không có sách thì làm sao chúng có được nhữn
Một truyện ngắn kinh điển của văn hào André Maurois, qua bản dịch của nhà văn Thân Trọng Sơn.
Không phải ngẫu nhiên mà Viết Về Nước Mỹ được nhà thơ Nguyên Sa gọi là “Lịch Sử Ngàn Người Viết.” Mà nếu tính cho đến ngày hôm nay, con số “ngàn” ấy chắc đã lên tới chục ngàn, trăm ngàn. Viết Về Nước Mỹ năm nay là năm thứ 25.
Trong không gian tĩnh lặng của một buổi sớm mùa thu tại thủ phủ Sacramento. Trời đã se lạnh, gió mùa vừa sang và những cơn mưa cũng đang bắt đầu nặng hạt, con chắp tay hướng về phương trời xa, nơi pháp thân Thầy vẫn tỏa rạng giữa hư vô. Bao nhiêu lời muốn nói, rồi bỗng hóa thành im lặng, vì làm sao dùng được lời phàm để nói hết công đức, trí tuệ và từ bi của một bậc Thạc đức như Thầy, người mà bốn chúng gọi là bậc minh sư, bậc long tượng Phật Giáo Việt Nam – Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ – người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc và nhân loại.
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót. Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza...
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.