Hôm nay,  

Nỗi Buồn Istanbul

13/04/200800:00:00(Xem: 8405)

Mỗi lần đọc Trăng trên vịnh Bosphorus là mỗi lần tôi buồn lạ lùng, tiếc hùi hụi, giá như mình có mặt tại đó, nhập vào những đam mê, nhập vào niềm im lặng ”thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt”, thay vì phải đọc qua một tác giả, rồi tôi sướng mê tơi khi nghĩ đến chuyện, làm sao, bằng cách nào, nhà văn, bị nỗi hoài nhớ thúc bách đến trở thành mù loà và cứ thế chìm xuống những dòng nước ngầm đen thui, quỉ ma của cái thiên đàng đã mất của ông. Vào những đêm trăng, khi những lá thuyền tụ lại ở một khoanh biển yên tĩnh, tiếng nhạc tắt ngấm, vào lúc đó, ngay A.S. Hisar cũng cảm nhận ra điều này: “Những lúc không một hơi gió, làn nước, đôi khi, như một cơn chuyển mình từ bên trong, lao xao, khiến mặt nước óng ánh như mặt lụa.”

Ngồi trên thuyền cùng với bà mẹ, hình như đối với tôi, những màu sắc trên những ngọn đồi Bosphorus không phản chiếu thứ ánh sáng bên ngoài. Những cây judas và vạn niên thanh, những cánh chim hải âu vỗ vùn vụt khi bay qua chúng tôi, những bờ tường kho chứa ghe thuyền, lở chỉ còn chừng một nửa, tất cả như phản chiếu một thứ ánh sáng mờ nhạt từ bên trong. Ngay cả vào những ngày nóng nực nhất, khi những đứa trẻ con nhà nghèo nhẩy từ con đường nơi bến tầu xuống mặt biển, mặt trời ở đây có vẻ như cũng không hoàn toàn làm chủ khí hậu và phong cảnh. Và tôi thật mê, trong khi cố cắt nghĩa, cảnh tượng, vào lúc ráng chiều mùa hè rớt xuống, cũng là lúc Bosphorus trộn bầu trời đỏ rực vào với sự bí ẩn của riêng nó về bóng tối. Tôi mê mầu nước thay đổi khi nó chuyển mình, như được bứt ra khỏi sự cầm giữ, và sủi bọt sùng sục, càng trở nên hung hãn khi những con thuyền cắt ngang nó. Nhưng ngay ở bên dưới mớ bọt biển kia, là phần biển mềm mại hơn, mầu sắc của nó không thay đổi gì nhiều, nhấp nha nhấp nhô, giống như bể hoa súng trong tranh Monet.

Vào giữa thập niên 1950, trong khi học tại Robert Academy, tôi dành khá nhiều thì giờ, đứng giữa đám người đợi xe buýt buổi sáng tại Besiktas-Sariyer, nhìn lên những ngọn đồi phía bờ biển Á Châu, trong lúc Bophorus chập chờn như một biển cả bí mật, thay đổi mầu sắc cùng với mặt trời lên. Vào những buổi chiều xuân sương mù, khi không một cọng lá nào ở trong thành phố rì rào lao xao, vào những đêm hè không một cánh gió, không một tiếng động, một người đàn ông lặng lẽ bước một mình sau nửa đêm dọc theo bờ biển Bophorus, anh ta chỉ nghe tiếng bước chân của chính mình, và khi anh ta vòng vòng ở khu Akinti Burnu, rồi đi quá Arnavukoy, hay khi anh ta đi tới ngọn hải đăng ở chân nghĩa trang Asiyan Cemetery, đúng lúc đó, anh sẽ nghe thấy tiếng gầm thật hạnh phúc, thật đáng sợ và thật sung mãn của con nước, và gật gà gật gù, những đợt khói sóng, mớ bọt biển kia, chẳng biết đến từ nơi nao, và tự hỏi, như Hisar đã từng, và tôi cũng đã từng tự hỏi, liệu chăng Bosphorus có một linh hồn.

Tôi nói về mầu của những cây bách, của những khu rừng âm u ở những nếp gấp của những thung lũng, của những yah hoang phế, trống rỗng, bị con người bỏ bê, tôi nói về thơ ca của những con tầu và những yali của Bophorus mà chỉ những ai đã từng tiêu hết, đốt hết cuộc đời của họ ở hai bên bờ thì mới hiểu được, tôi nói về sự khám phá ra niềm vui của cuộc sống trong những điêu tàn đổ nát của một nền văn minh khi nó đã đạt tới một cung cách rất ư là đặc thù, của riêng nó, tôi nói về sự ngần ngại, không làm sao quyết định, những đau khổ, những niềm vui và những kinh nghiệm của điều mà người ta gọi là cuộc đời, ở một nhà văn năm chục tuổi, và sự khát khao được sung sướng hạnh phúc, và được vui thích như là một đứa trẻ con mà với nó, Lịch sử và những văn hóa chẳng là cái thá gì, với niềm khao khát hiểu biết cuộc đời bằng sự chân thành. Tuy nhiên, ngay khi tôi bắt đâu gợi ra vẻ đẹp và thi ca Bosphorus, của những con phố âm u Istanbul, một giọng nói ở trong tôi dè chừng, này, đừng có cường điệu những vẻ đẹp của thành phố mà tôi sống ở đó, như thể, nó muốn tôi giấu diếm ngay cả với chính tôi cái bất toàn không viên mãn của cuộc đời mà tôi sống, có lẽ sự thiếu vắng cái đẹp ở trong chính cuộc đời của chính tôi là nông nỗi này: Nếu tôi nhìn thành phố và thấy nó đẹp, nó hớp hồn, nó mê hoặc, thì cuộc đời của tôi bắt buộc cũng phải như vậy. Rất nhiều nhà văn những thế hệ trước tôi rớt vào thói quen này, khi viết về Istanbul: ngay cả khi họ suýt xoa, hít hà vẻ đẹp của thành phố, khiến tôi mê mẩn với những câu chuyện của họ, rốt cuộc thì tôi cũng hiểu ra rằng thì là họ đâu có còn sống ở nơi chốn mà họ miêu tả, và họ thèm đến rỏ nước miếng những tiện nghi hiện đại của những đô thị Tây phương. Từ những đấng đàn anh này, tôi hiểu ra rằng, một khi có kẻ ngợi ca vẻ đẹp của Istanbul, điều đó có nghĩa, kẻ này đã tếch mẹ nó khỏi thành phố từ đời nảo đời nào rồi, và không phải là không có tí mặc cảm tội lỗi: Với một nhà văn suốt ngày lảm nhảm về những điêu tàn, về nỗi buồn của thành phố, của Bosphorus, kẻ này chẳng hề có khi nào thắc mắc, về thứ ánh sáng ma quỉ giáng xuống cuộc đời của chính anh ta, ui chao, ta đã làm chi nửa sau đời ta" Để mà bắt kịp, với tới, hay xứng đáng, với những vẻ đẹp của Bosphorus, là phải luôn luôn nhớ điều này: có một sự khác biệt rất lớn lao, giữa cuộc đời dơ dáng, thảm hại, nhếch nhác, sa đọa của chính cá nhân một con người, một cựu cư dân của thành phố, với những thành quả, chiến thắng, những vẻ đẹp huy hoàng của quá khứ.

*

Nhìn thành phố qua mầu đen trắng của nó là nhìn nó qua vẻ xám xịt, xỉn xìn xin của lịch sử: Vẻ gỉ sét của cái già khằn, cái nhạt nhòa, chìm dần vào hư vô, vào quên lãng, và chẳng còn làm cho phần còn lại của thế giới thắc mắc làm chi cho mệt. Ngay cả cái kiến trúc Ottoman lớn lao nhất như thế rút cục đành tỏ ra khiêm tốn, thôi thế thì thôi, trong cái vẻ u sầu, ủ ê tận cùng đế chế, dưới cái nhìn chằm chằm ra vẻ khinh khi, coi thường của Âu Châu và sự nghèo đói từ đời thuở nào cứ thế kéo dài giống như một căn bịnh vô phương cứu chữa. Chính tình cảm nhẫn nhục, cũng đành đó, đã nuôi dưỡng phần “hồn lại nhìn hồn” xót xa của Istanbul.

Muốn tóm được cái linh hồn đen trắng của thành phố muốn ngắm nhìn thềm sương mù ngồi xổm lên trên nó, muốn thở ở trong nỗi buồn mà những cư dân của nó ôm khư khư như số mệnh chung của họ, bạn chỉ cần bay từ một thành phố Tây phương giầu có, và cứ nhắm những con phố đông đúc mà hướng tới; nếu là mùa đông, bạn chỉ cần đi lên cầu Galata Bridge, và sẽ thấy một lũ người cùng mặc một thứ quần áo nhợt nhạt, buồn bã, giống như những bóng ma. Những người của Istanbul cùng thời với tôi, họ rất ít khi xỏ vào người thứ quần áo sặc sỡ, mầu đỏ, mầu vàng tươi, hay mầu xanh, mà những tổ tiên ngạo nghễ, tự hào của họ đã từng mặc; với những du khách ngoại quốc, nếu mới tới, vừa nhìn thấy họ lần đầu tiên, là sẽ nghĩ rằng, cái kiểu ăn mặc như thế, là để tỏ ra cố gắng không muốn làm phiền ai, cố gắng tỏ ra họ là những con người khiêm tốn giản dị, để được điểm đạo đức! Họ như muốn nói với du khách người nước ngoài, vâng chúng tôi ăn mặc đen trắng như thế là để cùng u sầu buồn bã với thành phố của chúng tôi, trong nỗi buồn đi xuống của nó, ở cái thời điểm tận cùng của một đế chế kéo dài một trăm năm mươi năm.

Và những du khách Tây Phương thế kỷ 19, từ Lamartine tới Gérard de Nerval tới Mark Twain, tất cả đều phụ họa thêm vào nỗi bi hài, ấy là vì họ miêu tả mấy chú chó lang thang trên những đường phố Istanbul, với cùng một nỗi say mê và hào hứng như nhau, và như thế, lại càng nuôi dưỡng thêm cho cái tình cảm đen trắng của tôi về thành phố của mình. Khi quân đội làm một cú đảo chính, chẳng chóng thì chầy, một ông tướng sẽ nhắc tới sự đe dọa của chó; nhà nước, nhà trường thực thi không biết bao nhiêu là chiến dịch nhằm xoá sạch hình ảnh chó trên đường phố, nhưng cứ như bắt cóc bỏ dĩa. Đáng sợ như là đáng sợ, với những hàm răng nhe nhơn nhởn hướng về bạn, đoàn kết như là đoàn kết, để chứng tỏ chúng coi thường, thách thức nhà nước. Làm sao mà tôi không thương hại những con vật mất mát, điên khùng cố bám lấy linh hồn chó Thổ từ thuở xa xưa của chúng"

NQT dịch Pamuk: Hồi ức Istanbul [Trích đoạn]

(www.tanvien.net)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.