Hôm nay,  

Mười Phút Lội Ngược Dòng

10/05/201700:00:00(Xem: 8687)

Vào khoảng giữa tháng 9/ 2016 tôi rất bất ngờ nhận một cú phôn của một cô gái trẻ tuổi nhận mình là nhân viên của DOMID (viết tắt của Dokumentationszentrum und Museum ber die Migration in Deutschland có nghĩa là Trung Tâm Tư Liệu và Bảo Tàng di dân ở Đức, nằm ở Kưln) muốn tiếp xúc để phỏng vấn về đề tài di dân của người Việt tại Đức trong một dự án của DOMID. Là người làm việc cho Cộng Đồng Tỵ Nạn nên chuyện phỏng vấn của các phóng viên báo chí… là chuyện thường tình nên tôi sẵn sàng nhận lời. Ngày 28.9.2016 cuộc phỏng vấn đã diễn ra trong không khí thân mật tại nhà riêng. Cô gái 28 tuổi là một người Việt di dân, đã từ Hà Nội đến Đức một mình từ khi còn nhỏ để đi học. Cô ta sở dĩ biết đến tôi là qua một trang Wordpress. Sau cuộc phỏng vấn chúng tôi thỉnh thoảng vẫn liên lạc với nhau.

Cho đến đầu tháng 3/2017 cô ta báo cho tôi biết là cơ quan DOMID sẽ phối hợp với Phòng Đối Thoại Di Dân và Hội Nhập của Quỹ Friedrich Ebert để tổ chức buổi ra mắt cuốn sách „ Vô Hình-Càc Hiện Thực Việt-Đức „ vào ngày 25.4.2017 tại Friedrich Ebert Stiftung Berlin. Cuốn sách này là một công trình kết hợp các buổi phỏng vấn nhiều thành phần người Việt ở Đức và người Việt từ Đức hồi hương, trong đó có phần nhỏ viết về buổi phỏng vấn với tôi.

Khi nhận được thư mời chính thức và chương trình buổi hội thảo thì tôi mới biết rõ là mình sẽ tham dự với tính cách hội thảo viên trong một phần khoảng 40 phút của chương trình. Tôi sẽ là một trong 4 nhân chứng di dân Việt, mà trong đó 3 người kia là nhân chứng cho tầng lớp thợ khách, thợ khách đã hồi hương và du sinh trẻ đến từ Hà Nội; chỉ có tôi là người duy nhất là nhân chứng thuyền nhân trong phần chương trình đó và cả trong suốt buổi hội thảo với 14 hội thảo viên người Việt Nam ( phải nhắc lại là trong tổng số người Việt trên đất Đức dưới thống kê chính thức mới nhất là 176.000 người, người Việt tỵ nạn được đánh giá thành công trong hội nhập nhất và chiếm khoảng 1/3 tổng số đó). Ngoài ra trong danh sách khách mời còn có tên của Đại Sứ CSVN Đoàn Xuân Hưng. Khi nhìn thấy thư mời thì phản ứng đầu tiên của tôi là muốn từ chối không đến tham dự buổi hội thảo vì hai lý do: thứ nhất là vì ban tổ chức không công bằng với tập thể người tỵ nạn với bằng chứng là họ chỉ mời một thuyền nhân duy nhất trong số 14 người đến nói chuyện trong buổi hội thảo, thứ hai là vì sự có mặt của viên đại sứ CSVN chỉ làm cho buổi hội thảo mất tính cách khách quan. Nhưng sau khi tham khảo ý kiến của Ban Chấp Hành Liên Hội và các thân hữu thì tôi phải đổi ý kiến, vì thực sự tuy bị lép vế trước các thành phần khác nhưng tôi phải lấy đó làm cơ hội nói lên tiếng nói trung thực của người tỵ nạn trước hành vi man rợ độc tài của đảng CSVN từ gần 70 năm nay.

Để nói được tiếng nói trung thực tôi phải cần thời gian. Mà trong phạm vi chương trình tôi chỉ được tham dự trên bục diễn đàn 40 phút chung với 3 người khác dưới hình thức phỏng vấn bởi một MC; tính ra là phần của tôi chỉ có 10 phút và nếu có phỏng vấn qua lại thì tôi chỉ còn 5-7 phút để phát biểu. Vì thế tôi phải mặc cả với ban tổ chức là sẽ chỉ nhận lời tham dự làm hội thảo viên nếu họ cho tôi phát biểu tự do 10 phút và không phỏng vấn. Tôi đoán vì chương trình đã phổ biến nên ban tổ chức đã chẳng đặng đừng mà phải chấp nhận một cách miễn cưỡng điều kiện của tôi.

Mười phút để kể lại câu chuyện của một đời người đã là không phải là đơn giản. Huống chi đây là một đời người nổi trôi theo một khúc quanh đen tối của lịch sử dân tộc. Ngoài chuyện „dinh tề“, di cư vào Nam … các thảm kịch của nhà cầm quyền CS Bắc Việt tạo nên cho mỗi gia đình miền Nam sau ngày 30.4.1975 đã không giấy bút nào kể xiết, thế mà tôi chỉ có 10 phút để mô tả lại; thảm trạng vượt biên của những con người đi tìm cái sống trong sự chết cũng phải gom lại trong 10 phút; hội nhập và vươn lên trong một nơi xa lạ cũng chỉ gói ghém trong 10 phút; hệ lụy bi thương của dân tộc cho tới ngày nay cũng chỉ nằm trong 10 phút; nói với tuổi trẻ sanh sau chiến tranh cũng chỉ 10 phút đó. Tôi viết rồi gạch bỏ vài hàng, viết lại rồi gạch bỏ vài câu, viết thêm rồi gạch đi vài đoạn.. cứ thế rồi bấm đồng hồ đọc đi đọc lại sao cho đúng 9-10 phút phát biểu, quá 10 phút thì lại phải cắt đi vài câu vài chữ nhưng ý chính không thể thiếu….

Cuối cùng tôi hoàn chỉnh được bài diễn văn với thời gian đọc nhanh nhưng đủ cho người nghe và hiểu là 9-10 phút. Bài văn được thâu gọn tới mức không thể ngắn hơn nữa, nhiều chi tiết giá trị cũng phải gạt bỏ bớt.

Không những tôi bị sức ép về thời gian mà còn chịu lực ép về nội dung bài phát biểu, vì tôi biết chắc rằng những lời tôi nói sẽ đi ngược chiều với các lời tuyên truyền của CSVN từ bấy lâu nay và do đó sẽ không làm vừa lòng những nhân vật đang muốn giao hảo với CSVN. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, hãy trả lại sự thật cho lịch sử khi mà các chứng nhân còn sống sờ sờ đây. Friedrich Ebert Stiftung thuộc vào đảng SPD, một chính đảng trong guồng máy chính trị Cộng Hòa Liên Bang Đức. Thế nên tôi cũng tin tưởng phần nào vào tính cách dân chủ của những người điều hành ở Friedrich Ebert Stiftung và hy vọng họ sẽ để tôi nói đến câu cuối.

Khi bước chân vào khỏi cửa Friedrich Ebert Stiftung tôi đã được ông Gnther Schultze, đại diện Friedrich Ebert Stiftung, tiếp đón. Ông hoan hỷ báo cho tôi biết ngay là viên Đại Sứ Việt Cộng đã từ chối đến tham dự hôm nay. Nhìn nét mặt ông trong lúc nói chuyện tôi có cảm tưởng như ông đã trút được một gánh nợ.

Sau khi thỏa thuận với ban tổ chức và MC một lần nữa thì cuộc họp được bắt đầu khá đúng giờ. Phần đối thoại với các nhân chứng mở đầu chương trình sau các nghi thức khai mạc của ban tổ chức. Theo đúng giao hẹn tôi được phép đọc diễn văn 10 phút. Mười phút quý báu để nói với những người bạn Đức, những thế hệ Việt sinh sau cuộc chiến về những điều mà có lẽ họ chưa nghe bao giờ hoặc có nghe nhưng chỉ nghĩ là tin giả (Fake News). Tôi đọc nhanh và nhanh hơn vì muốn đề phòng sự trễ giờ sẽ bị cắt mất phần cuối là phần quan trọng nhất trong bài. Thế mà sau khi trình bày đến đoạn nói về giải thưởng nhân quyền của Hội Đồng Thẩm Phán Đức trao tặng khiếm diện cho Luật Sư Nguyễn Văn Đài, từ trên bục giảng tôi nhìn xuống thấy bà Katharina Deriks, thư ký trong Friedrich Ebert Stiftung, bước tới cạnh ông Schultze nói nhỏ điều gì, ngay sau đó ông Schultze tiến lên bục giảng đẩy một tờ giấy nhỏ ghi „ hết giờ“ cho tôi thấy. Vì đã dự đoán trước sẽ có tình huống này xảy ra nên tôi phản ứng nói lớn liền „ hãy để tôi nói hết, chỉ còn hai giòng nữa „ và tôi tiếp tục trình bày những giòng cuối về thảm họa ô nhiễm môi trường.

Khi bước xuống hội trường tôi bất ngờ nhận được những vòng tay ôm, những cái bắt tay, những lời khuyến khích tinh thần của một số bạn Đức Việt, họ bảo „ bà phải nói lên sự thật như vậy cho chúng tôi biết „, „ cám ơn bà „, „ chúng ta phải nói lên sự thật“ ….hoặc là mỉa mai ban tổ chức „ tự do phát biểu mà như thế ấy à !!! „. Đặc biệt là sự cổ vũ của một Linh Mục người Đức cũng có mặt tại đó.

Tôi cũng gặp các bạn trẻ Việt trong Ban Tổ Chức trong giờ giải lao và bảo với họ:“ cô đòi hỏi tự do dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam là muốn tạo cho tương lai của các em có một cuộc sống nhân bản pháp lý ở quê hương, riêng cho đời cô thì đã quá muộn để được hưởng những giá trị này tại VN. Hãy nhớ rằng cô không tranh đấu cho cô mà là cho thế hệ các em „.

Tôi cũng gặp ông Schultze để than phiền về sự việc tôi là người duy nhất trong suốt buổi hội thảo đã nhận thẻ đỏ của ông; ông ta chỉ cười gượng gạo „ bà đừng nói nhiều, nói nhiều người ta không nghe đâu „. Nếu biết người ta không nghe thì tại sao ban tổ chức mở hội thảo làm gì, nhất là khi phải chi tiêu một số tiền thuế không nhỏ cả vào việc mua vé máy bay, đặt phòng Hotel cho nhiều người từ VN sang dự hội thảo.Tôi cũng không trách riêng gì ông Schultze, một ông chủ nhà muốn làm vừa lòng người đến đẹp lòng người đi. Nhưng chỉ vì muốn làm vừa lòng hết tất cả mọi người từ tả đến hữu mà họ đã quên những giá trị nhân bản nhất của con người, đó là giá trị chân chất của lịch sử, thì đó là một điều khó chấp nhận được trong một xã hội Đức dân chủ vững mạnh


Ngoài ra tôi cũng được biết đây là lần thứ ba Friedrich Ebert Stiftung mở hội thảo cho người di dân Việt Nam, nhưng hai lần trước hoàn toàn không có bóng dáng người tỵ nạn. Có lẽ sau lần này họ sẽ „ rút kinh nghiệm „ về nhân chứng thuyền nhân và sẽ cẩn thận hơn khi chọn lựa khuôn mặt người tỵ nạn để không phải nghe những lời „ trung ngôn nghịch nhĩ „

Berlin ngày 10.05.2017

BS Hoàng Thị Mỹ Lâm

***

Bản dịch bài diễn văn ngày 25.4.2017 tại Friedrich Ebert Stiftung ( do chính diễn giả tự dịch)

Tại sao chúng tôi phải trốn chạy ? Câu trả lời: khi quê hương trở thành địa ngục thì người ta phải bỏ ra đi.

Kính thưa quý vị,

Hai cụ thân sinh của tôi đã phải bỏ chạy từ bắc vào nam năm 1954 trước sự đe dọa tính mạng vì cuộc cải cách ruộng đất của nhà cầm quyền Cộng Sản. Khi đó tôi được 3 tuổi.

Gia đình chúng tôi thuộc vào một triệu người miền bắc di cư vào nam trong thời điểm này.

Vào Nam cha tôi làm việc trong sở Hỏa Xa tại Qui Nhơn. Từ năm 55 đến năm 59 chúng tôi sống trong hòa bình mặc dù cuộc chiến du kích của Việt Cộng đã nổi lên lẻ tẻ ở các địa phương từ năm 57.

Năm 1960 cha tôi bị triệu hồi về Saigon vì các cuộc tấn công của Việt Cộng vào đường sắt ngày càng tăng. Thời gian ngắn sau đó thì các đường sắt và toa tàu bị mìn của Việt Cộng phá hủy cho đến nỗi cả hệ thống đường sắt nối Saigon đến tận Huế hoàn toàn bị tê liệt.

Tại Saigon tôi đã tiếp tục hoàn tất chương trình Trung học phổ thông để bước vào Đại Học Y Khoa Saigon.

Ở hậu phương Saigon người ta chỉ cảm nhận sự tàn nhẫn của chiến tranh qua các vụ khủng bố của Việt Cộng như ném lựu đạn vào các đám đông trong trung tâm thành phố hay những đêm bị Việt Cộng pháo kích bắn từ ngoại ô vào các quận ở Saigon. Ngay cả những chuyến đi dã ngoại ngoài thành phố của Sinh Viên Học Sinh cũng nguy hiểm chết người vì các con đường bị Việt Cộng cài mìn.

Các thanh niên miền nam phải nhập ngũ tòng chinh. Họ chiến đấu cho chúng tôi, cho những người dân ở Saigon yên ổn sống, yên ổn học hành …Hàng triệu người chết và bị thương nơi tiền đồn hoặc thành nạn nhân của các cuộc truy sát đẫm máu của Việt Cộng mà điển hình là vụ giết dân trong Tết Mậu Thân 1968. Họ là cha, là anh em, là bạn bè, bạn học của chúng tôi.

Mặc cho sự tấn công của Việt Cộng trên mọi lãnh vực, từ chính trường đến chiến trường, chính phủ VNCH đã xây dựng được:

Một chính thể pháp quyền thực thi những giá trị căn bản của nhân quyền.

Một hệ thống trường công lập miễn phí từ tiểu học đến đại học và một hệ thống nhà thương công miễn phí

Phát triển đời sống văn hóa. Chúng tôi đã có hàng ngàn văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, hàng trăm tờ báo độc lập, hàng trăm ngàn đầu sách và vô số nhạc phẩm giá trị

Cuộc sống của tôi thời đó cũng giống như cuộc sống của tất cả sinh viên trên thế giới: bên cạnh học hành tôi thích đọc sách, mê nghe nhạc và muốn mở rộng kiến thức ra toàn thế giới.

Sau khi thất thủ vào ngày 30.4.1975 toàn miền Nam chịu sự trả thù dưới hình thức đô hộ và khủng bố của kẻ chiến thắng. Nhà cầm quyền mới là một thể chế cộng sản toàn trị với bạo lực cộng sản mà không hề có hệ thống lập pháp và tư pháp.

Như vậy có nghĩa là một đất nước không có pháp luật.

Miền nam Việt Nam trở thành một nhà tù lớn sau bức màn sắt. Sách vở, ngay cả sách giáo khoa và văn chương, đều bị đốt phá. Âm nhạc bị cấm hoàn toàn. Con người bị bắt mà không qua bất cứ một quá trình xét xử.

Hàng trăm ngàn thanh niên miền nam bị bắt giữ trong trại cải tạo, nhiều người đã bị tra tấn nhục hình đến chết. Vợ con họ bị đuổi đi vùng Kinh Tế Mới, nơi mà chỉ có đất hoang và bàn tay trắng.

Sau 3 năm học giáo điều chính trị trong Đại Học tôi được phân phối làm việc trong một bệnh viện. Trong Bệnh Viện thì sự thất vọng và phẫn nộ lại còn nhiều hơn. Những người miền bắc nắm trọn chức vụ lãnh đạo, và họ rất yếu kém về hiểu biết, từ kiến thức tổng quát đến kiến thức chuyên môn.

Tư tưởng được uốn nắn theo chủ nghĩa Mác-Lê. Bất cứ hình thức tư tưởng suy nghĩ nào khác đều không được chấp nhận. Chúng tôi không còn một hy vọng nào cho tương lai.

Con người không những chỉ cần ăn và uống. Tâm hồn và linh hồn cũng cần thức ăn. Tư tưởng không ai kiểm soát được, nhưng khi tư tưởng không thoát ra được và con người hàng ngày phải kiếm sống để tồn tại thì tư tưởng sẽ bị vùi chết theo ngày tháng.

Vì không gian sống của tôi, từ riêng tư đến nghề nghiệp, càng ngày càng chật hẹp lại khiến tôi như nghẹt thở trong môi trường đó.

Cuối cùng chỉ còn vượt biên là cách giải quyết. Vượt biên là đồng nghĩa với chấp nhận cái chết và lìa bỏ người thân.

Ngày 17.4.1979 tôi chạy trốn với một ngưới bạn học, cô ta hiện đang sống tại Paris. Chúng tôi gồm 297 người đi cùng một tàu đánh cá. Con tàu dài 18mét, ngang 3 mét. Trong 4 ngày lênh đênh trên biển chúng tôi bị hải tặc Thái cướp hai lần nhưng may mắn không bị hãm hiếp.

Ngày 21.4.1979 chúng tôi cập vào bãi biển Trengganu / Mã Lai. Ba ngày sau chúng tôi được tàu của Cao Ủy đưa về tập trung ở đảo tỵ nạn Pulau Bidong. Tại đảo tôi làm việc trong Bệnh Viện Sick Bay và chăm sóc cho trên 100 phụ nữ bị hải tặc Thái hãm hiếp, có vài nạn nhân chỉ mới 13 tuổi và bị nhiễm trùng rất nặng.

Ngày 5.3.1981 tôi đến Tegel Berlin trên một chuyến bay của hãng Lufthasa. Tôi đến một mình.

Kính thưa quý vị,

Ở Berlin tôi trú ngụ tại một trại tỵ nạn và được học mơ6t khóa tiếng Đức 8 tháng. Không lâu sau đó tôi lập gia đình. Sau khi sanh cháu bé thứ hai thì bằng cấp y khoa của tôi được chính phủ Đức công nhận.

Tôi bắt đầu làm việc tại Bệnh Viện Westend. Từ năm 1986 cho tới khi tôi về hưu vào tháng 9 năm ngoái, tức là tròn 30 năm, tôi phục vụ người bệnh tại Bệnh Viện Bethel Lichterfelde Berlin.

Tại Berlin tôi có một cuộc sống toại nguyện. Tôi có thể sống như ý tôi muốn vì nơi đây phẩm giá con người được tôn trọng ( câu này là câu đầu tiên nằm trong hiến pháp Đức ).

Tôi đọc nhiều, viết các tiểu phẩm, thưởng thức những bản nhạc tôi yêu thích mà không sợ phải bị bắt. Tôi tận hưởng một cuộc sống đa văn hóa và tin vào sự bảo vệ của luật pháp Đức.

Kính thưa quý vị,

sau gần 40 năm hầu hết những người Việt tỵ nạn đả thành công dân Đức có nguồn gốc di dân. Chúng tôi đã hội nhập hầu như toàn diện.

Dầu vậy lòng chúng tôi vẫn hướng về quê hương. Đất nước VN sau 42 năm hậu chiến bây giờ ra sao.

Theo Tổ chức Ân Xá Quốc Tế thì tình trạng Nhân Quyền ở VN không hề tiến triển. Ở hải ngoại người Việt bị theo dõi. Trong nước thì các vi phạm Nhân Quyền vẫn xảy ra hàng ngày.

Cách đây 3 tuần, vào ngày 5.4.2017 Hội Đồng Thẩm Phán Đức đã tao giải Nhân Quyền cho Luật Sư Nguyễn Văn Đài. Ông Nguyễn Văn Đài là người luật sư dấn thân ngay từ đầu để bảo vệ các giá trị của Nhân Quyền. Ông đã ngồi tù nhiều lần và lần cuối là từ tháng 12/2015 cho đến nay. Vợ của ông cũng bị cấm cảnh không được rời VN để đi nhận giải cho chồng. Do vậy mà Tổng Thống Đức Steinmeier phải trao giải cho một người đại diện.

Bên cạnh những vi phạm Nhân Quyền thì tình trạng ô nhiễm môi trường đang xảy ra hàng loạt tại VN. Chỉ riêng vụ Formosa trong tháng tư 2016 tại Vung Ang Ha Tinh đã có hàng tấn cá chết dọc theo hàng trăm cây số bờ biển miền trung Việt.

Sanh mạng con người ở các vùng dó bị đe dọa vì môi trường bị nhiễm độc. Vì tham nhũng và độc quyền lộng hành nên các thảm họa môi trường tại VN bị che dấu trước công luận quốc tế.

Vì thế tôi kêu gọi quý vị khi đầu tư vào VN, dù chỉ là trợ giúp phát triển hay giao dịch thương mại, xin hãy đặt Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền trước lợi nhuận kinh tế.

Nước Đức là một nước gương mẫu về Dân Chủ và Nhân Quyền. Xin hãy đừng chỉ xuất cảng hàng hóa mà hãy xuất cảng cả những giá trị nhân bản của Đức cho một cuộc sống đáng làm người.

Kính thưa quý vị

Tôi là một nhân chứng cho một thời đại đen tối của lịch sử VN. Những gì tôi vừa phát biểu là những lời xuất phát từ trái tim tôi. Trái tim của một người tỵ nạn yêu Tự Do và Dân Chủ.

Xin cám ơn quý vị đã lắng nghe.

Berlin,25.4.2017

HTML

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.