Hôm nay,  

Người Con Gái Của Nước

01/09/201816:17:00(Xem: 4754)

Người Con Gái Của Nước

 

Nguyễn Văn Sâm

 

Preserving a river or a creek can bring a lot of revenue.  Jim Fowler

 

 

 blank

 

  1. Nhỏ Trinh đi thẳng vô sàn nước sau khi để cặp sách lên bàn. Vô nhà tắm, nó cẩn thận thay bộ quần áo đương bận ra bỏ vô thau giặt đồ, vò nương nương, nhẹ tay như là nâng niu từng sợi vải. Nó kỳ những chỗ dơ, những chấm lốm đốm do nước bắn văng chớ không dám xài bàn chải. Xả nước, nó vắt nhè nhẹ như là bộ đồ được may bằng gấm nhiễu, mạnh là sợi sẽ tưa.

Xong xuôi nó móc lên sợi dây kẻm giăng trong đó, kéo vạt và hai tay áo cho thẳng để khô khỏi nhăn nheo rồi mới tắm gội, thay bộ đồ bộ vải bông ở nhà. Gần như mười bữa như một Ngoại ngồi coi truyền hình trên bộ ván ngựa đằng trước đều nói vọng vô:

“Trinh à! Con ỷ mình là con của nước nên thích giỡn với nước cả buổi chiều hay sao chớ?” Tiếng chớ của bà lên giọng hỏi nhưng là giọng ngọt ngào thân thiết nên nhỏ Trinh không có gì phải cập rập.  

Nó trả lời vọng ra:

“Ngoại à! Mai mà bộ đồ đi học chưa khô, là cháu của Ngoại không đi học được đó. Có một bộ đồ vía nầy thôi, rách hay dơ thì sáng mai khó lòng lắm.”

Nó không muốn nói rõ với Ngoại là mình sẽ trốn học vì không có quần áo khô, nên thay thế bằng hai chữ khó lòng.

Vậy mà nhiều lần trong tháng ai đó trong nhà nghễnh ngãng tắm giặt đã làm ướt bộ quần áo nó móc phơi trong nhà tắm. Sáng ra nó bậm môi thay vô mình bộ đồ hơi ướt ướt, nhiều chỗ còn ỉ ỉ  rồi cắp sách đi lang thang ở ngoài đường ngắm xe hơi đi qua, ngó xe máy xẹt lợi. Nhiều lần như vậy cuối cùng thì nó bị đuổi học.

Bữa thấy không cần thiết phải giấu người nhà nữa sau một tháng sáng nào cũng sửa soạn đi học nhưng khi ra khỏi nhà thì chỉ ôm cặp đi rong rong ngoài đường, chớ không đến lớp, nó thú nhận với mẹ:

“Má, con bị đuổi học rồi. Má cho con nghỉ ở nhà phụ với má chuyện nầy chuyện kia nha! Bán buôn gì cũng được. Con không được phép tới lớp học nữa rồi.”

Má nó như trời trồng, đứng sững:

“Sao? Con học giỏi lắm mà, sao lại bị đuổi đi?” Hai tiếng sao bà nhấn mạnh như hỏi gằn nhưng thiệt ra là để tự hỏi mình.

“Con học giỏi mà …. bị… nghỉ học nhiều quá.  Bận quần áo ướt vô lớp hoài bạn bè trêu chọc chịu không nỗi nên con lang thang ngoài đường…. Nghỉ nhiều nên trường bôi sổ. Con ham học lắm mà không được! Thêm nữa, tiền đâu mà đóng học kỳ nầy. Cộng hết tiền nầy tiền kia, tiêu hành tỏi ớt thì hơn hai triệu chứ bộ ít ỏi gì sao?” Nó vừa nói vừa chui đầu vô ngực mẹ.

Trinh tưởng mẹ sẽ rầy la ghê gớm lắm. Có thể đánh chưởi không chừng. Nhưng không người mẹ chỉ hỏi một câu nhẹ nhàng như vậy rồi thôi. Bà ngồi thở dài, ôm đầu con gái, vừa vuốt vuốt vừa nấc khóc nho nhỏ, cuối cùng bà nuốt nghẹn nói như cố tình làm cho con vui.

“Mắc cở chưa. Sầm sầm cái đầu mà còn nhỏng nhẻo với má.”

Nhỏ Trinh cảm động quá và mắc cở thiệt tình. Nó chưa biết làm gì hay nói sao trong hoàn cảnh nầy. Mẹ nó an ủi:

“Bà Ngoại già nên chắc là bà tắm văng nước làm ướt quần áo con phơi. Thôi số mình nghèo không đi học được thì chịu! Mẹ con mình sẽ buôn bán kiếm sống. Không kiếm chữ được thì kiếm cơm. Con đã lớn rồi, mười sáu tuổi đầu rồi chứ nhỏ nhít gì nữa đâu.” Không kiếm chữ ở trường học được thì thu góp khôn ngoan ở trường đời. Con cứ học bằng sách vỡ, cứ học bằng bà con lối xóm, bằng mạng internet, học ở chính con do sự suy nghĩ và quyết chí…”

Nó ngước mặt lên, ngó chăm bẳm vô mắt mẹ, mong bà nói rõ hơn. Người mẹ mà lâu nay nó nghĩ cũng bình thường như bao người chơn quê khác, bây giờ nó mới nghe một câu cao xa.  Lâu lắm bà mới nói, vẫn chăm chăm ngó vô đường rẽ ngôi trên mái tóc con:

“Má dốt và nghèo nhưng má biết cái gì là quan trọng cho đời người. Từ nay con phải lo tạo lập đời mình cho đúng: Nhớ kỷ cái đầu con, cái bộ não trong đó quan trọng hơn tiền bạc con có, càng quan trọng hơn sắc diện con gái của con.”

Trinh lờ mờ hiểu rằng mẹ mình muốn dạy mình thành một người đặc biệt hơn là thành một phụ nữ tầm thường chung quanh. Nó hít một hơi đầy buồng phổi và cảm thấy hãnh diện vì lời dạy của mẹ mình…

Nó ngó ra ngoài hiên, nắng liếm lên thềm, rọi sáng nền xi măng mới tráng gần đây, rọi lên những thùng giấy má nó đựng ba cái củ sắn, củ hành cùng là rau quả nầy kia bà bày ra trước nhà bán buôn với lối xóm. Trinh thấy như là cuộc đời nó mới bắt đầu, chông chênh nhưng được mẹ để mắt yểm trợ…. Nó hãnh diện và tự tin thêm.

 

  1. Chuyện đó tôi không còn nhớ nhiều. Lờ mờ nhân ảnh. Một phần vì xảy ra đã quá lâu, một phần vì ngày bi thảm nầy tôi mới 5, 6 tuổi nên hình ảnh thâu vô trí không có bao nhiêu, đến nay đã thành mờ nhạt, đứt nối không thể liên kết được. Chỉ nhớ là ông tôi lúc bị họ bắt ra mổ bụng ông nói mình chỉ là Phường Trưởng, một chức vụ hành chánh nhỏ nhít trong quận, chẳng có súng ống gì mà cũng chẳng có quyền bắt bớ ai. Máu me chảy ướt hết cái quần kaki của ông xuống tới dôi dép Nhựt làm chèm nhẹp đất, máu kết dính mấy ngón chưn ông và đọng vũng ở chỗ ông bị trói vô gốc cây vú sửa trước sân. Còn nhớ họ nói với nhau trước đó gì mà phải xử tội, gì mà ác ôn, gì mà phải bắt cho được….

Ông tôi hai hôm trước trốn trên nóc nhà, họ lục hết nhà dưới nầy không thấy. Mỗi lần tôi ngó lên nóc nhà là Ngoại tôi kéo tôi đi chỗ khác. Tôi biết là không được ngó lên đó nhưng mà không thể cưỡng nỗi đôi mắt liếc lên, có cái gì đó trong lòng tôi bắt ngó chừng lên đó hoài hoài như là muốn chắc chắn ông còn ở trên đó. Hai bữa sau, ông đói quá nên ngọ ngoạy tính xuống kiếm gì ăn thì bị phát hiện. Tội nghiệp ông, tôi biết ông chẳng làm gì hại ai, chỉ giúp người trong phường những chuyện giấy tờ lặt vặt cần thiết mà thôi.

Họ để ông chết đứng như vậy, cái đầu nghẻo xuống, cái bụng trống hóc đã thâm xì, ruồi bu không biết cơ man nào mà kể. Nghe tiếng ruồi vo ve không thôi tôi cũng bắt nhức đầu. Trời đất u ám hòa với cảnh tượng buồn thảm trước mặt làm cho tôi buồn ngủ thiệt tình, đứng đâu thì mắt nhắm híp ngủ đứng ở đó.

Lúc cái xác ông đã lên mùi, họ cắt dây trói kéo đem liệng xuống kinh thì tôi chạy vụt theo, giằng trì chưn ông lại và khóc la lớn tiếng. Không có ai dám làm như vậy trừ tôi vì tôi thương ông quá xá. Khi thấy tôi kéo níu lẩn quẩn làm vướng víu thì một người trợn mắt trừng tôi rồi đá một cái quá mạng, Tôi văng tuốt xuống bờ sông. May mà ở đó có đám lát cao, tôi níu chặt, sợ quá thêm đau cái hông vô cùng, tôi nhắm mắt và ngủ luôn không biết trời đất gì hết.

Con Lulu thấy có người ăn hiếp cô chủ nhỏ của nó thì vụt chồm nhảy tới, với một tốc độ kinh hoàng và ngoạm tay anh chàng nầy, cắn nghiến không buông. Hai bên giằng co nhau, cuối cùng con Lulu bị bắn chết. Má tôi sau nầy nói với tôi chuyện đó. Mắt người còn ươn ướt nước, không biết là thương con Lulu hay là nhắc về chuyện xưa bà nhớ tới ông ngoại tôi. Tôi thì tôi thương ông ngoại nhưng mà khóc vì tội nghiệp con LuLu.

Kể chuyện nầy lần nào cũng vậy, má trầm ngâm ngó ra bờ kinh trước nhà. Nước tràn đầy, mấp mé bờ, màu trong xanh, hiền hòa lững lờ chảy. Bên kia bờ là xóm ngả ba Rạch Cát, gần bờ luôn luôn tấp nập mấy chiếc ghe chài xúc cát và chở cát khẳm sát mí be.

Má tôi nin thinh hồi lâu mới buông ra mấy tiếng gọn lỏn:

“Giận hết biết!”

Bà luôn luôn như vậy, có lời phát biều như giận như than, nhưng không nói rõ giận ai và than với ai.

Tôi miên man trong suy nghĩ. Như vậy thì ít ra ông chết không cô đơn, có cả gia đình mình trước mặt, có cháu ngoại giành giựt phản đối kẻ ác, có con LuLu chết theo chưn. Thời đó biết bao nhiêu người chết đơn độc. Nghiệp họ chắc là nặng hơn nhiều hoặc giả họ đưa vai mình ra gánh nặng cái nghiệp của dân tộc chăng?

Cuối cùng con nhỏ rụt rè hỏi má:

“Con nằm ở dưới chỗ bờ nước hoài sao má? Lạnh chết!”

Má vuốt đầu con, giọng xa xăm:

“Có một thanh niên của họ sau đó ẳm con lên bờ. Anh ta bị cấp trên rầy la om tỏi, nhưng chuyện chẳng có gì trầm trọng lắm. Cuối cùng thì lính mình tiến lên. Đạn nả qua lại chừng một buổi thì họ rút đi đâu hết về bên kia sông phía sau nhà, ở xóm Bình An, để lại mấy xác trong đó có thằng cha đá con xuống sông, cánh tay bị con LuLu cắn vẫn chưa lành miệng.”

Tôi ngó lên mặt mẹ để tìm cảm xúc của bà. Tôi biết mẹ mình thất vọng lắm mới xài hai tiếng thằng cha, thường thì ngôn ngữ của bà được kiểm duyệt trước khi phát ra thành lời để không có những tiếng thằng cha, con mẹ.

Rồi má tôi chép miệng:

“Cũng cầu là người thanh niên kia không hề gì. Anh ta coi bộ hiền từ. ….. Giặc giã kỳ cục thiệt. Kẻ hiền, kẻ dữ sống chung chạ với nhau trong một nghiệp ác, con người sống đó chết đó trong nháy mắt….”

Tôi ngó ra bờ nước. Mấy bụi lau sậy mười năm rồi vẫn vậy. Phất phơ theo gió. Tôi tưởng tượng lại cảnh đứa nhỏ là tôi nằm nép mình sợ hãi trong đó. Tôi nhìn đăm đăm ra bờ sông, chớp mắt vài cái vì nước sông xanh lợt hình như đương đổi màu sang đỏ sáng trưng của lửa phừng phừng, cái đỏ của một hồ nước hoa mưng nở đầy, hoa nầy chồm lên hoa kia che kín cả khúc kinh rộng. Tôi không muốn thấy màu đỏ bi thảm đó nên nhíu mắt lại, cố thoát thần đôi ba phút để quên hoạt cảnh chung quanh…

 

  1. Nước đồng minh mông san dã, mút mắt không biết đâu là bến bờ. Thỉnh thoảng rời rạc lơ thơ mấy ngọn dừa trồi lên mặt nước vài ba tào trên đó đeo, đu năm sáu người ướt như chuột lột, té lên té xuống. Mặt nước chung quanh không động đậy mấy, hiền hòa nhưng bạt ngàn quá khiến cho con nguời cảm thấy nhỏ nhoi, yếu đuối. Chữ sắp chết chìm như dán lên mặt, thâu vô ánh mắt mệt mỏi và thất vọng của mọi người, ngay cả những thanh niên mới lớn, ỷ tài ỷ tận vừa mấy ngày trước còn tuyên bố tùm lum tà la…

Sáu Dậu hai chưn quơ dưới nước cố kiếm một chỗ để chưn trên bẹ dừa. Anh ta đạp nhằm chưn vợ. Người vợ mở mắt nhìn chồng.

“Ba con Trinh thấy thế nào? Mỏi cẳng không, cứ để cẳng trên cẳng tôi đở chút nào hay chút nấy, lấy sức mà giữ cái thùng con Trinh không thôi lỡ nước cuốn đi mất….”

Sáu Dậu không nói gì. Ba ngày nay ngâm mình trong nước lạnh, ngủ đứng mỗi lần vài ba phút anh đã quá mệt mỏi, chẳng buồn mở miệng.

Ngủ lần nầy một giấc hơi lâu anh mới mở mắt ra than với vợ:

“Má con Trinh à! Thôi thì tôi chịu thua. Tôi đi cho xong. Nước tràn đồng kiểu nầy không biết bao giờ mới rút. Hồi đó ở sâu trong Tháp Mười tới mùa nước nổi, người ta len trâu đi ngày nầy qua ngày nọ cả tuần lễ trong nước ngập tràn nhưng nước chỉ cao tới ngực là cùng. Còn kiếm được cái gì bỏ vô miệng. Bây giờ…”

Sáu Dậu buông lững câu nói. Chị vợ ngó chồng thương hại:

“Ba nó rán thêm chừng một, hai bữa nữa đi. Chớ cái thùng con Trinh rủi đứt dây tui biết làm sao. Tui đâu biết lội nhiều như ba nó đâu nà!”

Sáu Dậu ngó vô cái thùng thiếc lình bình theo nước nhấp nhô, nhờ có sợi dây lạt dừa cột lại nên không trôi đi. Con nhỏ nằm im trong đó, chung quanh mình chèn mấy bộ quần áo lành lặn của má nó, bú ngón tay coi thấy ghét ghê! Ba má nó trong cảnh đó cũng gượng cười. Hai ba người đồng cảnh cũng cười theo, chia vui với người mẹ trẻ.

Bỗng từ xa có tiếng máy nổ của một chiếc tác ráng. Mọi người đều lớn tiếng kêu cầu cứu. Tiếng kêu ai nấy đều cố gắng nhưng chỉ để thoát ra được những âm thanh khàn khàn yếu ớt.

Tiếng máy của tác ráng lớn lần lần, hình ảnh những người ngồi trên đó cũng rõ ràng in trên nền trời trong. Mọi người lục đục trong tư thế sẵn sàng tranh đấu để lấn chen lên phương tiện cứu sống đương tiến tới gần.

Sáu Dậu vừa ứa nước mắt vừa nói với một hai người mới kết thân mấy bữa rày:

“Mấy anh à, tôi không giành chỗ để lên tác ráng đâu, nhường chỗ cho mấy anh, nhưng mấy anh làm phước cho vợ tôi lên và cho cái thùng chứa con tôi…. Tội nghiệp họ, đàn bà con nít!”

Tác ráng tới, phương tiện của chánh quyền tỉnh, có một người lính Bảo An cầm súng, hai ba người kia cầm gậy gộc, họ cho tác ráng chạy quanh quanh cây dừa để quan sát tình hình, cuối cùng họ giơ 2 ngón tay trong khi ở đây đương có 6 mạng. Không ai nhường ai, tất cả nhao nhao và chưởi bới, giành chỗ ra gần mé nước nhứt. Sóng đánh từng chập liên tục. Tất cả trồi lên hụp xuống nhưng không ai để ý gì tới chuyện đó.

Cuối cùng người cầm súng dọa sẽ bắn bỏ ai giành lấn hay là sẽ bỏ đi cứu người ở chỗ khác. Anh ta nhấn mạnh đàn bà con nít lên trước, đàn ông sẽ được chọn trong số những người già yếu..

Trong cảnh chết sống do con nước giận dỗi đó Sáu Dậu mỉm cười khuyến khích vợ yên tâm, anh có thể chịu đựng thêm một hai ngày nữa chờ chuyến tác ráng khác.

 

  1. “Ba con ở lại sau rồi mất tích luôn?”, cô thiếu nữ lên giọng ở cuối câu thay cho tiếng hỏi.

Người đàn bà không trả lời, chỉ gật đầu và đưa khăn lên quẹt nước mắt.

Cô con gái ngó ra xa ngoài kinh. Nước vẫn tràn đầy như độ nào. Cô nghĩ tới người đàn ông trẻ là ba mình đã hi sinh cho mẹ con cô được lên chiếc tác ráng đầy người bị lụt lúc đó. Cô hình dung ra sự chen lấn giành giựt một chút chỗ ngồi như giành giựt sự sống mà cô nghe kể lại về những bước đường vượt thoát của đồng bào hai ba năm về trước.

Cô buột miệng:

“Giửa cái sống và cái chết mà lằn ranh thiệt nhỏ nhoi và mơ hồ, tâm con người phải hay lắm mới bình tĩnh và nhường nhịn. Con biết lúc đó má phải trầy vi tróc vảy lắm mới lên được chiếc tác ráng.”

“Thì vậy!”

Chị Sáu Dậu nói tới đó thì ngừng ngang, sụt sịt :

“Ý là có họng súng bảo vệ, có ba con đẩy lên mà má đem con lên được rồi thì bãi hoãi, chỉ muốn buông tay chết cho khỏe. Ba con ôm eo ếch má, rồi ôm hai cẳng đầy lên vậy mà có hai ba người nào đó cứ kéo trì xuống hoài. Cuối cùng ba con hét lên coi chừng chìm xuồng thì người lính Bảo An mới bắn một loạt và mấy người cầm cây đập họ má mới trèo lên được. Thiệt tình thì tác ráng cũng chật quá rồi. Có một người bị đập quá mạng, máu me đầy mặt nhưng cũng nhoài lên được sau khi lấn một ông già lọt trở lại. Ngó bộ mặt máu me của anh ta và đôi mắt thất thần hoang dại ai nấy cũng thấy tội nghiệp mà quên ông già bị té xuống nước khi nảy nên năn nỉ những người trên tác ráng tha cho anh ta.”

“Ba con ở lại hy vọng đi chuyến sau. Từ đó má con mình không gặp ba con nữa. Rồi lên Sài-gòn ở nhà Ngoại. Rồi ông ngoại chết thảm. Rồi con bị đá xuống kinh. Từ đó bà ngoại nói con là con của nước.”

Con Trinh an ủi má nó:

“Chuyện buồn quá, thôi  từ rày má đừng nhắc lại nữa. Nước cứu con hai lần rồi. Con là con của nước chắc chắn từ rày nước sẽ lo. Con sẽ nương theo nước mà sống, không bao giờ quên ơn nước và hứa sẽ chẳng làm gì cho nước giận hờn phải nổi sóng, nổi lụt.”

 

  1. Chị Trinh bước ra cửa khi thấy thấy thoáng một người đàn bà cặp cái rỗ cảu hình như là đựng cá đi xăm xăm vô ngõ. Người đàn bà mời đon đả:

“Cô Trinh mua giùm mớ cá hủng hỉnh nầy. Hai vợ chồng tụi tôi đi bắt hồi đầu hôm tới giờ. Được có bấy nhiêu. Bán lấy tiền mua gạo nấu cháo cho sấp nhỏ. Nhà hết gạo rồi!”

Trinh giở tấm lá chuối lên coi. Đâu chỉ có hai ba con cá to bằng nắm tay đứa con nít chưa tới tuổi đi học, còn lại là cá nhỏ, đủ thứ, trọng trọng bằng mút đủa là lớn, phần nhiều thì nhỏ híu…

“Trời ơi, chị bắt chi mấy con cá nhỏ tí tẹo, cả chục con không đầy một lủm, để  cho nó lớn bắt lại phải tốt hơn không?”

“Chê nhỏ mình không bắt họ cũng bắt hết cô ơi! Ai thấy cá mà bỏ đi cho đành.” Chị cười cầu tài: “Nhiều con nhỏ thì cũng thành một con lớn vậy.”

Trinh thở dài, để tay lên vai người đàn bà:

“Nói nầy nghe nè! Nếu mình bắt hết cá nhỏ thì làm sao sau nầy còn cá lớn mà ăn. Chẳng thà bỏ cho ai bắt thì bắt, chứ bắt cá nhỏ là tự mình làm hư môi trường sống của cá, và làm hại nguồn sinh thái của người sống ở vùng nầy.”

“Cô Trinh nói gì tôi không hiểu. Nghe lùng bùng lổ tai.”

Trinh cười cười, nghỉ ngợi một lúc rồi chậm rải nói, khi nhìn thấy hai ba đứa nhỏ thập thò ngoài trước, ý chừng muốn coi người ta buôn bán thứ gì.

“Giả sử như có một ông khổng lồ nào đó ở đây bắt hết nít nhỏ ăn thịt thì chị thử tưởng tượng coi 2, 3 chục năm sau chỗ mình ở còn ai? Chỉ mấy người già thôi. Rồi người già chết thì xóm nầy thành xóm hoang. Cá cũng vậy! Mình bắt hết cá nhỏ thì sau nầy không còn con cá lớn nào. Mấy người chài lưới giăng câu xóm mình than sao không có cá lớn là vậy. Họ nói lúc họ còn nhỏ thì cá tôm ê hề, cha chú họ muốn ăn chỉ cần xách lưới, xách nom ra một chập là mang về cả nửa thùng thiếc tha hồ mà nướng trui, nấu cháo hay làm một nồi canh chua đầy cá bằng bắp chuối. Bây giờ đi soi cả đêm mới được một nhúm không bằng số bỏ hồi đó. Càng khó mơ kiếm được tôm càng hay lẩu cá kèo, nồi canh chua cá tra, cá bông lau hay nồi cá chạch kho gừng. Muốn ăn thì phải bỏ tiền, không thể nào ra đồng ra sông mà có. Tại sao chị biết hôn? Tại vì ta con nào cũng bắt, nhỏ lớn gì cũng liệng tuốt vô giỏ, hỏng tha con nào hết. Người ta còn bắt bằng cách chích điện nữa. Bắt một giết chết mười. Hỏi làm sao mà còn cá tôm cho được.”

Người đàn bà sốt ruột:

“Mà cô ơi, cô mua rổ nầy đi, tui với ảnh không bắt người khác cũng bắt. Biết như cô nói là đúng nhưng mà cái khó nó bó cái khôn cô ơi, nghèo làm cho mình hèn đi, tham lam từ chút một.”

Trinh thấy tội nghiệp chị đàn bà kia. Cái nhìn của chị không thể xa hơn miếng ăn của gia đình mình.

“Nói thì nói vậy chớ không sao, tôi mua cho chị rổ cá nầy.” Ngó thấy chỉ có một mớ nhỏ mấy chục con còn nhảy xoi xói bên cạnh mấy con thiếu nước đã bắt đầu hả miệng ngáp ngáp Trinh móc túi đưa tiền: “Mua mà tôi không ăn đâu, chỉ xin chị bước xéo qua cái lạch nước cạn sau nhà ông Tổ Trưởng, băng qua hết cái bàu Lung, tới cái xẻo kế đó rồi thả tất cả xuống xẻo. Tội nghiệp, xóm Việt Kiều Cam-pu-chia ở đó họ khổ lắm, tụi nhỏ thường ăn cơm chan nước lạnh, rắc vô một ít muối thôi, chẳng có thức ăn gì hết. Tội lắm! Bầy cá nầy sanh sôi nẩy nở hi vọng sau nầy họ có thêm cái ăn phần nào.”  

“Sao cô phải làm vậy?”

Trinh kéo người đàn bà ngồi xuống.

“Chị có nghe người ta nói về cuộc di cư của cá hồì ở nước Canada, hay ở Alaska  nước Mỹ không?”

????

“Loài cá hồi thịt đỏ là loại cá ngon lắm. Nhiều nước họ ăn sống nữa bởi vì thịt nó đã không tanh mà còn thơm thơm. Cá nầy sanh sản ở nước sông đầu nguồn. Nhưng cá con sau một năm, khi lớn bằng bắp tay thì đều rủ nhau lội ra biển để sống. Cuộc hành trình cả mấy trăm cây số, bằng đây ra tới ngoài Huế lận. Ở biển chúng lớn lên thành đàn, Cả chục triệu con. Khi về già, sắp sanh con, chúng rủ nhau lội trở về sông cũ, đẻ trứng ở đây rồi chết ở đây, trứng nở ra con nhỏ. Con cá nhỏ lớn lên có thể lội xa được thì vượt đường sông trở ra biển. Cứ như vậy…. Nếu người dân ở vùng sông cá lội qua mà cứ bắt hết cá nhỏ thì năm tới làm sao có cả chục triệu con cá lớn trở về.  Mà nữa, làm chừng một hai lần cá sẽ đi chỗ khác mà sanh đẻ hay là tuyệt chủng thì dân chúng ở xa không có cá ăn đã đành mà dân ở hai bên bờ sông cũng chẳng có cá ăn nữa!”

Người đàn bà để rổ cá xuống, đưa tay bóc lên mấy con cá, xăm soi, ý chị ta là sao cá của mình quá nhỏ, và quá ít. chị thắc mắc:

“Con đường sông quá xa sao cá biết đường lội tới nơi được cô? Tôi đi từ đây tới cầu ông Thìn, ra chợ Xóm Củi còn lạc, cá lội mấy trăm cây số thiệt là tài.”

Trinh giải thích:

“Người ta nói cá đi về nguồn bằng mùi sông quê hương lúc trẻ. Chúng nhớ cái mùi được hưởng từ phút đầu đời đó và cứ việc lội về nơi có mùi thân thuộc ngày cũ để được truyền giống và chết trên quê hương… Dễ thương ghê!”

Hai người đàn bà lại ngồi trầm ngâm ngó mông ra cửa.

Trinh nói tiếp:

“Chị biết không, trong mấy nước kia, dân ở chỗ đàn cá hồi về sanh sản được dạy rằng chỉ bắt cá có chừng mực mà thôi, mỗi người lớn một ngày không quá ba con, mà phải mua giấy phép câu cá chứ không được bắt tận giết tuyệt như người mình mần củi trên rừng mần cá dưới sông. Cá hồi trở về lội chật cả sông, biến thành dòng nước đỏ người ta đi coi như lễ hội mà không ai bắt cá trái phép. Tại sao vậy? Vì người ta có ý thức bảo vệ chúng để cộng đồng được cái lợi lớn về sau…. giết cá còn nhỏ là chặt đứt tương lai của mình, như tự mình chặt tay mình để bị chết đói….”

Chị bán cá trầm ngâm:

“Phải mình ở gần đó đi coi cho biết ha. Cha! Cá đầy sông, đỏ au nước sông thì đẹp hết biết! Rủ bà con đi coi cá lội vui chết luôn!”

“Mình không có cá hồi thì cũng có những cái đẹp khác như Đầm Dơi, dơi về đầy đầm, Đầm Cò, cò rủ nhau tới đầy đồng trắng dã một vùng. Đẹp biết là bao nhiêu! Tiếc là gần đây người ta đồn bậy nầy nọ về cường dương bổ thận nên dơi và cò bị giết quá nhiều, mấy chỗ đó bây giờ chỉ còn thưa thớt vài ba chục con, không còn là chỗ đáng coi nữa.”

Người đàn bà chỉ muốn đi sớm, dợm cẳng:

“Thôi, tôi đi nghe cô Trinh! Có nghe nói về xóm Việt Kiều Cam-pu-chia tội nghiệp lắm, người ta che chòi lụp xụp để tránh mưa tránh nắng, con nít không đi học được vì không có hộ khẩu, tối ngày lang thang ở nhà không ai coi chừng coi đổi gì hết. Nghe như vậy nhưng chưa bao giờ qua tới xóm đó. Sẵn cô nhờ tôi ghé coi họ luôn. Nghe nói họ còn nghèo hơn tụi tui nữa…”

“Chị biết tại sao không? Họ trước đây ở Biển Hồ. Cá tôm tràn đầy, ăn đâu hết. Phải làm khô làm mắm. Một phần dân Miên ở Biển Hồ chài bắt quá sức, một phần bốn quốc gia trên thượng nguồn tranh nhau làm đập ngăn nước cho nên cá bị mất dòng sống, không sanh sản nhiều như xưa nửa, Biển Hồ trở nên biển không cá. Dân mình không còn có thể sinh sống bằng nghề chài lưới nên phải lộn trở về đây…”

“Mình cho họ rổ cá nầy nhe?”

Trinh buột miệng cười lớn:

“Chị cũng chưa hiểu hết ý của em, nhưng mà thôi, mình nói lại chuyện đó sau. Bây giờ chị đem đến bàu Lung mà thả giùm cũng được, đi xa quá sợ rằng cá chết hết, vô ích.”

Trinh móc mấy chục ngàn ra trả cho người đàn bà chịu nghe kia rồi mỉm cười khi thấy chị ra tới cửa ngõ còn quay đầu lại gỡi lời chào thầy giáo rồi vui vẻ nói về dự định của mình:

“Cô Trinh à, chắc tui chuyển nghề…. đi bán bánh ít bánh tét, bánh cam bánh vòng, bánh đúc hay bánh bột chiên chớ nghề bắt cá con nầy coi bộ mang tội sát sanh mà chẳng được cóc khô gì.”

Ngó bộ mặt hí hửng tươi cười và dáng chị ta quày quã, Trinh nghĩ mình đã thành công phần nào. Nói cho người nào đó bỏ thói quen không phải dễ dàng gì. Càng khó hơn khi khuyên họ bỏ một suy nghĩ đã hằn nếp bao nhiêu chục năm. Chỉ trông mong cho mưa dầm thấm đất họ từ từ thấy đâu là lẽ phải.. Rồi cô mỉm cười với mình: Và Mẹ nước bớt bị vắt sức tới nỗi cạn kiệt không cung cấp được cho đàn con sống trên vòng tay nước của mình….

  1. Thầy giáo Hiếu lập lại với vợ về tiếng đồn của dân chúng trong vùng từ khi chị Trinh về làm dâu xứ nầy:

“Cô Trinh vợ thầy giáo Hiếu từ về xóm nầy tới giờ mang đến cho xóm những ý kiến mới, những đề nghị đổi thay. Một số ít đồng ý nhưng một số đông người  có những bực bội. Chị nói về mẹ nước, về nguồn sống từ nước và bổn phận của con người là bảo vệ nước để tài nguyên trong đó khỏi cạn kiệt… chị nói mà không để ý đến hoàn cảnh thực tế về đời sống của dân chúng..”

Cuối câu giáo Hiếu cười cười hỏi vợ:

“Em thấy họ nói đúng không, có oan em chút nào không?”

“Đúng thì có đúng nhưng oan.”

“Oan sao đâu nói nghe coi.”

“Họ không thấy lòng tốt của em nghĩ tới người dân mà chỉ để ý đến lời khuyên trái với lòng họ nghĩ theo cách cũ xưa nay nên bực bội oan cho em. Gặp ai thì em cũng giảng là đừng làm dơ nguồn nước, đừng làm cạn kiệt nguồn cá tôm trong dòng mẹ nước. Chủ cơ xưởng ghét vì thải thẳng chất phế thải công nghiệp ra sông ra rạch thì họ đở phải chi phí làm sạch nước phế thải. Chánh quyền không ưa em vì họ có lợi khi bao che cho chủ xí nghiệp. Khó khăn với xí nghiệp thì họ được lợi gì đâu. Mà theo lý thì phải khó khăn.”

“Mình là người dân thôi thì nhắm mắt cho qua. Nói càng thêm vạ vô thân.”

“Họa ai lại không sợ, nhưng biết mà không nói thì mình sẽ tự khinh mình…”

Thầy giáo Hiếu làm thinh, bỏ ra ngoài hút thuốc. Thấy không khí khó thở chị Trinh bước ra theo chồng, dã lã:

“Anh coi, mấy cô gái bán giấy số xổ liền kìa. Đẹp ác! Má đỏ đỏ môi hồng hồng móng nhọn nhọn, tóc dợn dợn, guốc cao cao. Bán giấy số mà trang phục kiểu đó không phải xổ liền chẳng lẻ vừa đi bán vừa đi ăn đám cưới.”

Giáo Hiếu cuời, cười:

“Giấy số xổ liền là gì vậy bà xã?”

“Thôi đi ông thần ơi, đừng giả mù sa mưa. Giấy số xổ liền là bán hoa trá hình đó. Đồng ý đi mát mẻ thì khi mua giấy số ra hiệu gì đó, cô ta sẽ đưa cho số điện thoại di động. Khách sẽ gọi lại hẹn bãi đáp, giờ đáp...”

Giáo Hiếu chép miệng:

“Anh thấy tội nghiệp, đáng thương hơn là đáng trách. Họ không biết cách làm ăn nào khác nên phải nhắm mắt đưa chưn. Em thấy không hai ba cô đi lên bè cá. Thế nào sau đó cũng có chuyện.”

“Em ác cảm với những người nuôi cá bè! Họ làm giàu mau nhưng cũng mau làm ô nhiễm nước sông. Cả trăm cái bè cá kéo dài từ đây tới Cần Giuộc thì dân chúng còn đâu nước sạch mà dùng….  Nước sông sạch làm cho con người tráng kiện, nước sông ô nhiễm làm cho dân chúng ở gần dòng sông ốm o gầy mòn, chết sớm… Bây giờ chủ bè có tiền thì họ lại làm ô nhiễm đời… những giới chức thẩm quyền thì ngó lơ vì ăn sôi chùa ngậm miệng.”

Giáo Hiếu xối một thùng nước lạnh vô mặt vợ:

“Ai khôn thì nhờ, ai nghèo khó, thấp cổ bé miệng thì chịu thiệt thòi. Em phát biểu linh tinh có ngày vô tù sớm…”

Chị Trinh bỗng cảm thấy xa cách với người chồng đầu gối tay ấp mấy năm nay. Trong câu nói của Hiếu chị thấy nổi bật sự sợ sệt ẩn chứa trong lời thối thác. Sự thối thác lâu ngày sẽ tạo hình cho tính vô cảm mà Trinh rất ghét.

  1. Nửa đêm hôm đó xóm gần cầu Nhị Thiên Đường có tiếng la phát ra từ chỗ xóm bè cá:

“Cứu tôi! Cứu tôi! Ụp! Ụp!……Tôi không biết lội. Họ đi bay rồi BÙNG còn xô tôi xuống sông! Ụp! Ụp!….. Cứu tôi!  Cứu tôi!“ Ụp!

Chị Trinh lay chồng:

“Anh nghe kìa! Tội nghiệp thì thôi! Tiếng kêu cứu của cô gái bán giấy số xổ liền. Hi vọng có ai đó kịp cứu cô ta. Mình tới nơi thì chắc cũng đã quá trễ.”

Nghĩ đến cô gái sắp chết chìm bỗng nhiên chị Trinh tỉnh ngộ: Mình là con của nước. Nước đây là nước sông nước rạch, Đồng thời là cái Nước nhỏ bé khốn khổ bao nhiêu ngàn năm nay. Con của Nước. Con của Nước. Vậy tôi phải làm gì cho xứng đáng.

Chị Trinh ngồi dậy lắng tay nghe coi có tiếng lao xao tiếp theo chuyện kêu cứu vừa rồi hay không.

Tư bề yên lặng. Thầy giáo Hiếu đã trở mình ngủ lại. Vô tư….

Gió bỗng thổi mạnh, rồi mưa trút xuống sụt sùi, như nước trên trời khóc buồn cho muôn ngàn sinh linh đương lặn hụp trong số kiếp bi thương. Và sự cô đơn của Trinh nữa!

 

          Nguyễn Văn Sâm (01-25 Aug. 2013)

         [Sau khi đọc tin về những anh thư nước Việt gần đây.] 

 

Chú thích: Người bán giấy số xổ liền là những cô gái trẻ bán giấy số nhưng có thể

 Bán tình cho  ai cần. (tiếng lóng thành Hồ)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.