Donald Trump từng hứa hẹn sẽ thực hiện chiến dịch trục xuất quy mô lớn, đem di dân lậu ra làm “vật tế thần,” đổ thừa họ là nguyên nhân chính gây ra những khó khăn kinh tế và bất ổn xã hội tại Mỹ. Nhưng kể từ khi nhậm chức, Trump đã lộ ra ý định mở rộng chính sách này, không chỉ nhắm vào di dân lậu mà còn bao gồm cả công dân Hoa Kỳ.
Khoảng đầu tháng 7 năm 2025, khi được hỏi liệu ông có trục xuất cố vấn cũ Elon Musk vì đã chỉ trích “Dự luật bự, đẹp” hay không, Trump nói rằng “để coi lại đã.” Tỷ phú công nghệ Elon Musk sinh ra tại Nam Phi và trở thành công dân Hoa Kỳ vào năm 2002.
Cũng trong ngày hôm đó, Trump đặt nghi vấn về quốc tịch của Zohran Mamdani, ứng viên Thị trưởng Thành phố New York (Đảng Dân Chủ): “Rất nhiều người nói ổng không có giấy tờ hợp pháp. Chúng tôi sẽ kiểm tra hết.” Mamdani sinh ra tại Uganda và nhập tịch Hoa Kỳ vào năm 2018.
Trump cũng đe dọa sẽ cho bắt giữ Mamdani nếu dám cản trở các hoạt động của Sở Di Trú và Quan Thuế (ICE). Mamdani đáp lại rằng: “Tổng thống Hoa Kỳ vừa đe dọa tước quyền công dân, bắt giam và trục xuất tôi. Không phải vì tôi phạm luật, mà vì tôi kiên quyết không để ICE gieo rắc sợ hãi trong thành phố của chúng ta.”
Chính quyền Trump trước đó đã triển khai các chính sách nhằm tước bỏ thị thực và tư cách hợp pháp của người nhập cư, bao gồm cả sinh viên quốc tế và người được tạm dung vì lý do nhân đạo (humanitarian parolees). Thậm chí, đã có trường hợp trẻ em sinh tại Hoa Kỳ bị trục xuất cùng cha mẹ vì chính phủ liên bang đang muốn tái định nghĩa quyền có quốc tịch theo nơi sinh (birthright citizenship).
Tổng thống cũng nhiều lần bày tỏ mong muốn trục xuất những công dân Hoa Kỳ từng bị kết án tội bạo lực sang các nhà tù ở nước ngoài.
“Chúng tôi cần tìm hiểu kỹ về mặt pháp lý. Nói thiệt chứ nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ không chần chừ gì mà làm liền,” Trump cho biết trong buổi họp báo hôm thứ Ba (1/7). “Chưa rõ liệu chúng tôi có quyền đó hay không, nhưng chúng tôi đang nghiên cứu.”
Các chuyên gia pháp lý cho biết việc trục xuất công dân Hoa Kỳ vì bất kỳ lý do gì là vi hiến, nhưng chính quyền Trump dường như đang muốn “đi đường vòng”: tước quốc tịch (denaturalization) trước rồi mới tính chuyện trục xuất. Mặc dù quy trình này chỉ áp dụng với người nhập tịch, nhưng số người thuộc diện này hiện lên tới hơn 25 triệu – chiếm hơn 7% dân số cả nước.
Sau đây là một số điều nên biết.
Nguồn gốc và diễn biến của việc tước quốc tịch
Chính sách tước quốc tịch tại Hoa Kỳ có một lịch sử dài và phức tạp.
Patrick Weil, giám đốc nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Pháp (French National Centre for Scientific Research) và là giáo sư thỉnh giảng tại Trường Luật Đại học Yale – đã xuất bản một cuốn sách năm 2012 có tên The Sovereign Citizen: Denaturalization and the Origins of the American Republic (xin tạm phỏng dịch: Quyền Công Dân Bất Khả Xâm Phạm: Tước Quốc Tịch và Nguồn Gốc của Nền Cộng Hòa Mỹ).
Trong sách, Weil chỉ ra rằng sự ra đời và tiến triển của chính sách tước quốc tịch diễn ra “âm thầm nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc tái định nghĩa khái niệm công dân Mỹ trong thời hiện đại.”
Qua các thay đổi trong luật pháp và phán quyết của Tối Cao Pháp Viện (TCPV), việc tước quốc tịch – từng được dùng phổ biến để buộc công dân nhập tịch phải tuân thủ những chuẩn mực đạo đức và hành vi – nay trở thành tình huống hiếm hoi do rào cản pháp lý rất cao. Cũng nhờ vậy, quyền công dân Hoa Kỳ, dù là được sinh ra tại Mỹ hay nhờ nhập tịch, hiện nay gần như là bất khả xâm phạm.
Ba cột mốc quan trọng nhất là các năm 1906, 1940, và 1967.
Khi Đạo Luật Nhập Tịch năm 1906 được thông qua nhằm thống nhất quy trình nhập tịch dưới sự điều hành của chính phủ liên bang, có một điều khoản đặc biệt đã được thêm vào nhằm cho phép tước quốc tịch. Theo Weil, ban đầu điều khoản này “chủ yếu là để giải quyết các trường hợp gian lận hoặc sai phạm trong quá trình nhập tịch – tức là trước khi người xin nhập tịch chính thức trở thành công dân.” Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều thập niên sau đó, phần lớn các trường hợp bị tước quốc tịch là vì chính quyền muốn loại bỏ những người bị cho là không phù hợp với các giá trị của Hoa Kỳ. Tước quốc tịch dần trở thành công cụ để thanh lọc cộng đồng chính trị Hoa Kỳ khỏi những người bị cho là ‘ngoại lai,’ dựa trên sắc tộc, quê quán, hoặc quan điểm chính trị của họ.
“Nếu một công dân nhập tịch là người gốc Á, phản đối chiến tranh, là người theo chủ nghĩa Xã hội, Cộng sản, Phát xít, hoặc sống ở nước ngoài, họ có thể bị tước quốc tịch,” Weil viết, nhưng cũng lưu ý rằng: “Từ 1906 đến cuối thập niên 1930, các trường hợp bị tước quốc tịch vì lý do chính trị hay sắc tộc không tới 100 người. Phần lớn vẫn là những người sinh ra và sống ở nước ngoài – có năm lên đến vài trăm trường hợp.”
Trong Thế Chiến II, việc tước quốc tịch “trở thành một phần thiết yếu trong chương trình an ninh quốc gia của Bộ Tư Pháp nhằm đối phó với các mối đe dọa từ ‘kẻ thù’ của nước Mỹ.”
Nhưng “không chỉ công dân sinh ở nước ngoài mới có cơ nguy bị tước quốc tịch,” Weil giải thích. Khi chính sách này trở thành một phần quan trọng trong chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia của chính phủ thời chiến, Đạo Luật Quốc Tịch năm 1940 đã mở rộng quyền tước quốc tịch đối với cả những người sinh tại Mỹ. Trước kia, chỉ những công dân sinh ở Mỹ nhưng mang quốc tịch nước ngoài mới có thể bị tước quốc tịch. Song đạo luật năm 1940 đã thêm vào danh sách này cả những người trốn tránh nghĩa vụ quân sự, phục vụ trong quân đội nước ngoài hoặc tham gia bầu cử tại quốc gia khác.
Sau đó, TCPV bắt đầu ra tay, từng bước cắt giảm quyền lực của chính phủ liên bang trong việc tước quốc tịch. Weil viết: “Trước khi chiến tranh xảy ra, TCPV từng ủng hộ nhánh hành pháp, cho phép họ tước quốc tịch của những người mới nhập tịch chỉ vì những lỗi nhỏ, như đơn từ không đúng mẫu, chưa sống đủ thời gian tại Mỹ, hay tuổi tác khi đặt chân đến Mỹ.” Nhưng rồi, trong suốt ba mươi năm sau đó, Tòa đã phải thụ lý và xem xét không ít vụ kiện về vấn đề này.
“Tùy từng trường hợp, khoảng một nửa số thẩm phán của TCPV vẫn ủng hộ Quốc Hội có quyền tước quốc tịch của bất kỳ ai, dù là công dân nhập tịch hay người sinh tại Mỹ. Họ cho rằng đây là chuyện liên quan đến chính sách đối ngoại, nên nên để cho Quốc Hội và Tổng thống quyết định. Trong khi đó, phe kia thì khăng khăng rằng phải tôn trọng các quyền hiến định, như tự do ngôn luận và quyền được xét xử công bằng. Cuối cùng, dù chia rẽ dữ dội, Tòa vẫn dần dần thu hẹp quyền lực của chính phủ trong việc tước quốc tịch, bằng cách đứng ra bảo vệ tiếng nói và quyền lợi pháp lý khi tham gia tố tụng của những người nhập tịch.”
Sau nhiều thập niên tranh cãi, trong phán quyết lịch sử vụ kiện Afroyim v. Rusk năm 1967, thẩm phán Hugo Black khẳng định rằng: theo Tu Chính Án 14, công dân Hoa Kỳ, dù là người sinh tại Hoa Kỳ hay được nhập tịch, đều có đầy đủ quyền công dân Mỹ, và các quyền này không thể bị tước đoạt bởi một nhóm người cầm quyền tạm thời.
Trong phán quyết, Thẩm phán Black viết: “Một chính quyền tự do như của chúng ta không thể có một hệ thống luật pháp cho phép nhóm công dân đang tạm thời nắm quyền có thể đi tước quốc tịch của nhóm công dân khác.”
Mặc dù việc tước quốc tịch bị giới hạn nghiêm ngặt sau đó, Weil ghi nhận rằng: “Tòa án vẫn cho phép, trong những trường hợp rất hiếm hoi, việc tước quyền công dân của người nhập tịch.”
Các điều kiện nghiêm ngặt đối với việc tước quốc tịch tại Hoa Kỳ
Theo Weil, trước năm 1967 có khoảng 22,000 trường hợp bị tước quốc tịch tại Hoa Kỳ. Từ năm 1967 đến khi cuốn sách của ông xuất bản vào năm 2012, con số này chỉ là khoảng 150 (sau đó Bộ Tư Pháp cho biết đã có 305 trường hợp bị tước quốc tịch từ năm 1990 đến 2017).
“Dù việc này đã giảm bớt rất nhiều,” Weil viết, “kể từ năm 1967, tước quốc tịch vẫn có thể xảy ra trong hai trường hợp chính. Đầu tiên là đối với những người vi phạm nghiêm trọng nhân quyền,” chủ yếu nhắm vào những người che giấu quá khứ tội ác chiến tranh (như tội phạm thời Đức Quốc xã) khi nhập tịch. “Khác với thái độ nghi ngại vào những năm 60 và 70, ngày nay các tòa án không phản đối việc chính phủ thu hồi quốc tịch từ những người từng vi phạm nhân quyền.”
“Trường hợp thứ hai là gian lận hoặc không trung thực trong quá trình xin nhập tịch,” Weil viết.
Bản khuyến cáo năm 2020 của Trung Tâm Pháp Lý Về Di Trú (Immigrant Legal Resource Center, ILRC) giải thích rằng “một công dân nhập tịch có thể bị tước quốc tịch nếu chính phủ liên bang có bằng chứng cứ rõ ràng, thuyết phục và không thể chối cãi – trong một vụ kiện dân sự hay một vụ án hình sự – rằng người đó không đủ điều kiện nhập tịch ngay từ đầu.”
ILRC cũng lưu ý rằng, theo một đạo luật được ban hành từ thời Chiến Tranh Lạnh và vẫn còn hiệu lực, người nhập tịch có thể bị tước quốc tịch nếu từ chối cung cấp lời khai trước một ủy ban Quốc hội đang điều tra các hoạt động bị tình nghi là chống phá. Ngoài ra, những ai được nhập tịch nhờ phục vụ trong quân đội thời chiến cũng có thể mất quyền nếu không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu liên quan.
Tước quyền công dân theo hướng hình sự đòi hỏi phải đạt chuẩn bằng chứng nghiêm ngặt như mọi vụ án hình sự khác. Còn trong vụ kiện dân sự, chính phủ chỉ cần thuyết phục tòa rằng việc nhập tịch đã diễn ra một cách “bất hợp pháp” hoặc có “che giấu sự thật quan trọng hay cố tình khai man.” Và trong những vụ kiện thế này, bị đơn có thể không được chỉ định luật sư.
ILRC giải thích rằng “nhập tịch bất hợp pháp” là trường hợp người không hội đủ điều kiện nhưng vẫn được cấp quốc tịch, mà không cần thiết phải có bằng chứng cho thấy đã khai man hoặc giấu giếm sự thật. Nhưng trên thực tế, sự khác biệt giữa hai tình huống là không đáng kể, bởi vì “nếu ai đó che giấu hay khai gian để được nhập tịch thì cũng chính là một dạng nhập tịch bất hợp pháp.”
Các điều kiện nhập tịch hợp lệ, nếu vi phạm có thể bị tính là nhập tịch bất hợp pháp, bao gồm:
a) Có quy chế thường trú hợp pháp trong vòng năm năm (hoặc ba năm nếu kết hôn với công dân Hoa Kỳ);
b) Sống liên tục ở Hoa Kỳ trong suốt thời gian đó;
c) Có mặt tại Hoa Kỳ trong ít nhất một nửa thời gian;
d) Có đạo đức tốt (good moral character);
e) Chứng minh rằng bản thân “luôn tuân theo các nguyên tắc trong Hiến Pháp Hoa Kỳ và tích cực đóng góp cho sự ổn định và hạnh phúc của đất nước.”
Hai điều kiện cuối cùng rất dễ bị hiểu theo nhiều cách khác nhau. “Đa phần các trường hợp bị tước quốc tịch vì không có đạo đức tốt đều là tình huống đương sự từng phạm pháp trước khi nhập tịch, nhưng đến sau đó mới bị phát hiện, và trong hồ sơ xin nhập tịch, họ cũng không khai ra những việc đó.” Tương tự, nếu trong vòng năm năm sau khi được nhập tịch, người đó “trở thành thành viên hoặc có quan hệ với một tổ chức bị cấm, chẳng hạn như tổ chức khủng bố, thì có thể bị coi là không tuân thủ các nguyên tắc của Hiến Pháp và không tích cực đóng góp cho sự ổn định và hạnh phúc của đất nước vào thời điểm được cấp quốc tịch, và có thể bị tước quốc tịch.”
Tước quốc tịch dưới thời Trump
Từ thời Tổng thống Obama, chính phủ đã bắt đầu đẩy mạnh việc rà soát quốc tịch với Chiến dịch Janus (Operation Janus) của Bộ Nội An. Chương trình này sử dụng dữ liệu cá nhân, trong đó có cả dấu vân tay, để tìm ra những người nhập tịch gian lận.
Tuy nhiên, phải đến tháng 1 năm 2018, vụ tước quốc tịch đầu tiên theo Operation Janus diễn ra – dưới thời Trump. Ngay sau đó, Sở Di Trú và Công Dân (USCIS) thông báo sẽ chuyển khoảng 1,600 hồ sơ đáng ngờ qua Bộ Tư Pháp để khởi tố. Đến năm 2019, Bộ Nội An thậm chí còn tái phân bổ ngân sách từ USCIS sang ICE để dồn lực tăng cường điều tra công dân nhập tịch.
Theo giáo sư luật Cassandra Burke Robertson tại Đại học Case Western Reserve, chính quyền Trump trong nhiệm kỳ đầu “đã đẩy nỗ lực tước quyền công dân lên một tầm cao mới.” Tổ chức Open Justice Initiative cho biết số trường hợp bị tước quốc tịch hàng năm dưới Trump gần như gấp đôi so với thời Obama.
Năm 2020, Bộ Tư Pháp lập ra Phòng Tước Quốc Tịch (Denaturalization Section) trực thuộc cơ quan di trú, “chuyên trách điều tra và khởi kiện thu hồi quyền công dân,” tập trung vào “những người bị cáo buộc là khủng bố, tội phạm chiến tranh, tội phạm tình dục và các trường hợp gian lận khi xin nhập tịch.”
“Dù chính quyền này dành nhiều nguồn lực cho các vụ này,” ILRC lưu ý, “số người thực sự bị tước quốc tịch vẫn còn ít. Tuy nhiên, việc lập ra bộ phận chuyên trách như vậy có thể mở rộng phạm vi áp dụng trong tương lai gần, ảnh hưởng đến nhiều người hơn. Việc này cũng được cho là sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến số lượng đơn xin quốc tịch mới, và gây thêm tắc nghẽn cho hệ thống duyệt xét di trú vốn đã quá tải.”
Năm 2021, Tổng thống Joe Biden từng yêu cầu các cơ quan liên bang rà soát lại toàn bộ quy trình tước quốc tịch và thu hồi hộ chiếu, nhằm “đảm bảo các quyền hạn đó không bị lạm dụng hoặc dùng sai mục đích.”
Nhưng từ khi tái đắc cử, Trump một lần nữa đưa việc tước quốc tịch thành ưu tiên hàng đầu.
Trong bản thông cáo nội bộ ngày 11 tháng 6, Bộ Tư Pháp đưa ra hướng dẫn cho Cơ quan Dân sự (Civil Division), cánh tay kiện tụng chủ lực của bộ, tập trung vào hàng loạt chương trình ưu tiên, trong đó có việc tước quốc tịch.
Tùy viên Công tố (Assistant Attorney General) Brett Shumate nhấn mạnh: “Tước quốc tịch dân sự là biện pháp giúp chính phủ có thể thu hồi quyền công dân của những kẻ từng phạm tội chiến tranh, giết người ngoài pháp luật, hay vi phạm nhân quyền trầm trọng; loại bỏ tội phạm nhập tịch, thành viên băng nhóm và bất cứ ai bị kết án hình sự mà vẫn gây đe dọa cho đất nước; đồng thời ngăn không cho các phần tử khủng bố từng bị kết án quay lại đất Mỹ hay sử dụng hộ chiếu Hoa Kỳ để ra nước ngoài.”
Theo chỉ thị của Shumate, các trường hợp cần được ưu tiên tiến hành tước quốc tịch là những người bị xem là mối đe dọa tiềm ẩn đối với an ninh quốc gia, đặc biệt là những ai có liên quan tới khủng bố, tình báo, hoặc từng tuồn các loại hàng hóa, công nghệ và thông tin nhạy cảm ra nước ngoài.
Hiệp hội Luật sư Bào chữa Hình sự Quốc gia (NACDL) đã chỉ trích hướng dẫn này, cho rằng việc sử dụng thủ tục kiện tụng dân sự để tước quốc tịch là đáng quan ngại, vì “không yêu cầu bằng chứng rõ ràng, gắt gao” và “không bắt buộc các nhà chức trách phải cung cấp luật sự cho bị đơn.” Họ cũng chỉ ra rằng bản hướng dẫn sử dụng ngôn ngữ “mập mờ” và “quá rộng.”
Chủ tịch NACDL Christopher Wellborn cho biết: “Việc chính quyền Trump đẩy mạnh tước quyền công dân là một dấu hiệu đáng lo ngại, đặc biệt là về những vấn đề xoay quanh Tu Chính Án Số 14. Việc dùng kiện tụng dân sự để né tránh nghĩa vụ theo Tu Chính Án Số 6 cho thấy họ xem thường quyền được có luật sư bào chữa. Dù ghi là chỉ nhắm vào những hành vi che giấu tội trạng trong quá khứ, nhưng cách hành văn lại ngụ ý rằng bất kỳ lỗi lầm nào, dù xảy ra từ lâu, đều có thể bị lôi ra làm cớ để tước quốc tịch.”
Còn Elon Musk và Zohran Mamdani thì sao?
Dù bị cuốn vào làn sóng tranh cãi, Musk và Mamdani có lẽ không phải là mục tiêu thực sự trong chiến dịch tước quốc tịch của chính quyền Trump. Theo giáo sư Michael Kagan, chuyên gia luật tại Đại học Nevada ở Las Vegas: “Chính phủ chỉ có thể tiến hành tước quốc tịch nếu chứng minh được có gian dối nghiêm trọng trong đơn xin nhập quốc tịch.” Những lời lẽ của Trump “chỉ là để thị uy, tạo sức ép lên các đối thủ chính trị.”
Trước đây, Musk đã phủ nhận thông tin cho rằng ông từng làm việc trái phép trước khi có quốc tịch Mỹ.
Mamdani thì bị một số nghị sĩ lên án vì cho rằng ông ủng hộ các tổ chức khủng bố. Cựu Thị trưởng New York Rudy Giuliani, hiện là cố vấn trong hội đồng an ninh của Bộ Nội An, ủng hộ việc tước quốc tịch và trục xuất Mamdani. Giuliani còn gọi Mamdani là “kẻ phản quốc,” nhưng cũng thừa nhận: “Tôi không biết liệu chúng ta có thể buộc tội ổng hay không, nhưng rõ ràng là người ta phải coi lại lòng trung thành của ổng đối với Hoa Kỳ.”
Tuy nhiên, như Weil đã nêu tác phẩm nghiên cứu về lịch sử tước quốc tịch, TCPV từng xác định rằng quốc tịch Hoa Kỳ không còn phụ thuộc vào mức độ trung thành của người đó với đất nước. Nhưng như lịch sử cũng cho thấy TCPV có thể thay đổi quan điểm, và tòa án hiện nay đang “đặc biệt dễ dãi với Trump.”
Mà dù chính quyền Trump có thể tước quốc tịch của Mamdani (khiến ông không thể nhậm chức), thì cũng không có nghĩa là họ có quyền trục xuất ông ngay. Theo quy định, những người bị tước quốc tịch sẽ trở về tình trạng cư trú cũ trước khi nhập tịch – trong trường hợp của Mamdani, đó là thẻ xanh, tức thường trú nhân hợp pháp.
VB biên dịch
Nguồn: “Can Trump Deport U.S. Citizens Like Elon Musk and Zohran Mamdani?” được đăng trên trang Time.com.
Send comment