Hôm nay,  

“Chiếm Dụng Văn Hóa" hay “hấp thụ văn hóa” là thế nào?

16/09/202200:00:00(Xem: 8012)

 

chiem dung 1

(Nguồn hình: https://medium.com )

 

Mới đây, ở Việt Nam, mẫu giày Biti’s Hunter bloomin’ central tạo nên nhiều dư luận xoay quanh việc sử dụng vải thổ cẩm của người Chăm. Sau khi được nhiều cá nhân và tổ chức góp ý, Biti’s đã có lời xin lỗi tới công chúng và điều chỉnh nội dung truyền thông cho sản phẩm (1). Cũng gần đây, hai người mẫu Việt Nam xuất hiện trên hình ảnh với màu da nâu đậm và bị một số người đặt câu hỏi không biết có phải là “chiếm dụng văn hóa” của người Da Đen hay không (2).
 
Từ ngữ “chiếm dụng văn hoá” hay “chiếm đoạt văn hóa” được dùng để dịch từ tiếng Anh “cultural appropriation” có vẻ đang được dùng càng ngày càng nhiều trên báo chí tại Việt Nam, và đối với tác giả bài này, đây là một điểm gây ngạc nhiên.

chiem dung 3chiem dung 2
 
Đây là một từ ngữ mới áp dụng cho một ý niệm mới đối với người Việt. Trong quá khứ người Việt chúng ta vẫn hay bắt chước các mốt mới của các nền văn hóa khác (các cụ ngày xưa vẫn mơ “ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật”), và không những chấp nhận mà còn hãnh diện, vui mừng được người ta bắt chước mình như ăn phở, cầm đũa, mặc áo dài, dùng cyclo đạp (cycle rickshaw giống xe cyclo của ta ở nhiều thành phố Mỹ) để chở du khách đi chơi, hát nhạc Việt, v.v ...
 
Chúng ta thử tìm hiểu ranh giới giữa hấp thụ văn hóa và chiếm dụng hay chiếm đoạt văn hóa là ở đâu.
 
Theo Encyclopedia Britannica, chiếm dụng (hay chiếm đoạt) văn hóa ban đầu chỉ việc sử dụng các yếu tố hữu hình hoặc phi vật thể của một nền văn hóa này bởi các thành viên của nền văn hóa khác, bao gồm cả việc các bảo tàng phương Tây mua lại các hiện vật – đôi khi bị chiếm đoạt dưới thời thực dân – từ các nền văn hóa khác. (Gần đây một số bảo tàng viện Mỹ đã trả lại nước gốc những hiện vật bị đánh cắp từ nhiều năm trước. FBI cũng trả lại hàng ngàn hiện vật bị một người Mỹ đánh cắp, một số hiện vật trả lại cho Việt Nam (3).
 
Sau đó, khái niệm “appropriation” này được các nhà phê bình văn học và nghệ thuật sử dụng cho một hoàn cảnh vay mượn tương tự trong văn học và nghệ thuật, nhưng thường là với hàm ý bóc lột và thống trị (exploitation and domination). Từ cuối những năm 2000, theo thời gian và sự phát triển của các ngành học phê phán (như lý luận phê phán chủng tộc, CRT hay critical race theory) ở Mỹ, định nghĩa thứ hai đã trở nên phổ biến và có xu hướng du nhập vào các nước nói tiếng Pháp hay các ngôn ngữ khác như Việt Nam. Do đó, “chiếm dụng văn hóa” ngày nay thường đề cập đến ý tưởng rằng việc sử dụng các yếu tố của một nền văn hóa bởi các thành viên của một nền văn hóa “thống trị” (của đa số da trắng ở Mỹ) hoặc được coi là văn hóa “thuộc địa mới” (ví dụ văn hóa Mỹ đối với các nước đang phát triển) tự trong bản chất sẽ bị coi là không tôn trọng đối với các nền văn hóa khác (4).
 
Vì đây là một hiện tượng “cấp tiến”, thiên tả xuất phát từ Mỹ với bối cảnh xã hội phức tạp của một đất nước đa chủng tộc và đa văn hóa (khác với những nước khá thuần chủng như Việt Nam), chúng ta thử tìm hiểu thêm về từ ngữ này qua lăng kính của Encyclopedia Britannica (5) là tiếng nói gần như chính thức của học thuật Tây phương (đa số da trắng). Có thể nhiều người Mỹ không đồng ý với việc dùng những thí dụ này như là những hành động “chiếm dụng văn hóa”, và thậm chí cũng có thể nhiều người, nhất là phía bảo thủ cho rằng “chiếm dụng văn hóa” chỉ là một chuyện do các người da trắng trí thức cấp tiến vẽ vời thêu dệt để chứng tỏ họ thức tỉnh hơn người khác trong khi chính bản thân người sống trong các nền văn hóa coi như bị chiếm dụng thì lại chẳng thắc mắc và đặt vấn đề gì cả (6). Tuy nhiên, độc giả cũng như tác giả bài này không phải là người da trắng đa số tại Mỹ và chúng ta cũng nên “thoải mái” tìm hiểu “thế trận” giữa các nền văn hóa trong cuộc chiến văn hóa ở Mỹ hiện nay như thế nào.
 
Theo Encyclopedia Britannica, bắt đầu từ những năm 1980, thuật ngữ chiếm dụng văn hóa lần đầu tiên được sử dụng trong không gian học thuật để thảo luận về các vấn đề như chủ nghĩa thực dân và mối quan hệ giữa các nhóm đa số và thiểu số, cuối cùng từ ngữ có tính cách học thuật này đã xâm nhập vào văn hóa đại chúng. Sự chiếm dụng văn hóa xảy ra khi các thành viên của một nhóm đa số chấp nhận các yếu tố văn hóa của một nhóm thiểu số theo cách bóc lột, thiếu tôn trọng hoặc theo khuôn mẫu nhiều thành kiến. Trong quá khứ, định nghĩa văn hóa không phải là dễ dàng. Lối giải thích theo nhân chủng học sớm nhất và được trích dẫn nhiều nhất là của nhà nhân chủng học người Anh Edward Burnett Tylor, người đã viết vào năm 1871 rằng “Văn hóa là tổng thể phức tạp bao gồm các kiến thức, tín điều, nghệ thuật, luân lý, luật pháp, phong tục, và bất kỳ khả năng và thói quen nào khác mà con người sở đắc được trong khi làm một thành viên của xã hội.” Tylor giải thích rằng văn hóa không được kế thừa qua ngả sinh học mà là những điều mà chúng ta học được và thực hành khi chúng ta thuộc vào một nhóm nào đó.
 
Từ định nghĩa này, hiện nay người ta muốn phân biệt hai thái độ khác nhau trong việc sử dụng các yếu tố của một nền văn hóa khác ngoài nền văn hóa của mình. Một bên là thưởng thức cái hay của một nền văn hóa, như người Việt thưởng thức các món ăn Nhật hay thưởng thức văn chương Pháp hay nhạc Mỹ. Một bên là “appropriation” hay “chiếm dụng” những yếu tố của nền văn hóa đó, một việc mà mình không có thẩm quyền để làm và không có quyền để làm theo như định nghĩa (nghĩa thứ 3) sau đây của từ điển Merriam-Webster:
 
Definition of appropriate (verb):
 
1: to take exclusive possession of : dành độc quyền sở hữu.
2: to set apart for or assign to a particular purpose or use appropriate money for a research program: tách qua một bên hoặc chỉ định cho một mục đích nào đó hoặc dùng số tiền thích hợp cho một chương trình khảo cứu
3: to take or make use of without authority or right natural habitats that have been appropriated for human use
chiếm dụng (chiếm hoặc trưng dụng) mà không có thẩm quyền hoặc không có quyền, ví dụ: các môi trường sống thiên nhiên bị chiếm dụng để loài người dùng.
 
Theo Đại Từ Điển Tiếng Việt của Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), định nghĩa “chiếm dụng” như sau: “Chiếm lấy và sử dụng một cách trái phép”, ví dụ chiếm dụng nhà vắng chủ, chiếm dụng vốn của tập thể.
 
Google translate dịch cultural appropriation ra tiếng Trung Hoa là:文化挪用 (văn hóa na dụng) (na=xê dịch, na dụng = đem dùng vào việc khác). Thiết tưởng chiếm dụng có vẻ quen thuộc với người Việt hơn là “na dụng”.
 
Sau đây là một số ví dụ về chiếm dụng văn hóa theo Encyclopedia Britannica (5).
 
1) Một thành viên của nhóm đa số thu lợi về mặt tài chính hoặc xã hội từ văn hóa của nhóm thiểu số là chiếm đoạt văn hóa.
 
chiem dung 4
 
Năm 1990, Madonna phát hành video âm nhạc cho bài hát “Vogue” của cô, trong đó có điệu nhảy (voguing) được phát triển trong một nhóm sinh hoạt văn hóa (subculture) “drag-ball’ là những cuộc biểu diễn khiêu vũ dành cho người đồng tính nam ăn mặc giả gái (drag queen). Mặc dù Madonna có dùng những người biểu diễn “drag” trong video, bề ngoài có vẻ tôn trọng nguồn gốc của điệu nhảy, nhưng Madonna mới là người thu lợi khi “Vogue” đạt hai đĩa bạch kim tại Hoa Kỳ. Vì Madonna thu lợi tài chính và văn hóa từ lối khiêu vũ “vogue” mà những người sáng tạo ra nó thì không được hưởng lợi gí cả, việc cô ta sử dụng điệu nhảy là một hành vi chiếm dụng văn hóa.
 
 2) Một thành viên của nhóm đa số đơn giản hóa văn hóa của một nhóm thiểu số hoặc coi văn hóa của một nhóm thiểu số như một trò đùa, là hành vi chiếm đoạt văn hóa.
 
chiem dung 5
Khi đội bóng chày Cleveland Indians (Người Da Đỏ Thành phố Cleveland) được thành lập vào năm 1915, tờ báo Cleveland Plain Dealer viết: “Sẽ không có người da đỏ thực sự trong danh sách đội viên, nhưng cái tên này sẽ gợi lại những truyền thống tốt đẹp.” Mặc dù không nhằm mục đích chỉ trích vào thời điểm đó, nhưng câu đó giải thích một cách gọn gàng vấn đề gây ra bởi một khái niệm như việc dùng người Mỹ bản địa (người Da Đỏ, những người đầu tiên sinh sống trên đất Mỹ) như linh vật thể thao: chúng không phải là sản phẩm của nền văn hóa bản địa đích thực, nhưng chúng đại diện cho những gì mà người không phải bản địa cho là văn hóa bản địa. Bởi vì những linh vật (mascot) này dựa trên hình ảnh biếm họa về chủng tộc và duy trì những định kiến sai lầm về người Mỹ bản địa, chúng hoạt động như một sự chiếm đoạt văn hóa.
 
3) Một thành viên của một nhóm đa số tách những yếu tố văn hóa của một nhóm thiểu số ra khỏi ý nghĩa ban đầu của nó là sự chiếm đoạt văn hóa.

Trong những năm 2010, sự trỗi dậy của các lễ hội âm nhạc như Coachella (ở Indio, California, vào tháng tư mỗi năm) đã làm dấy lên những xu hướng mới trong thời trang lễ hội, với một số người tham dự đội trên đầu những loại nón sặc sỡ của người Mỹ bản địa (Da Đỏ) mang trong lúc ra trận (warbonnet).

chiem dung 6chiem dung 7 
Không giống như các món trang sức truyền thống của người Da Đỏ, phần lớn được bán bởi các nghệ nhân Da Đỏ bán cho khách hàng thuộc mọi nền văn hóa, những chiếc nón lông vũ (warbonnet) này có một mục đích văn hóa quan trọng. Trong số các cộng đồng người Da Đỏ ở Vùng Đồng Cỏ Mỹ (Plains Indians), warbonnet chỉ được dành cho các người lãnh đạo cộng đồng vào những dịp đặc biệt; trong các nhóm khác, mang nón này là một vinh dự cho những người có thành tích không khác gì một huy chương quân sự. Khi những người tham dự lễ hội không phải là người Da Đỏ lại đội các nón ra trận này và tách nó ra khỏi ý nghĩa văn hóa nguyên thủy của nó đối với người Da Đỏ, họ đang thực hiện hành vi chiếm dụng văn hóa.
 
Tại vùng Thủ đô Mỹ Washington, DC, tên và logo (phù hiệu) của đội banh football nổi tiếng “Redskins” đã bị chống đối từ mấy chục năm nay vì bị cho là xúc phạm với người Da Đỏ cũng như chiếm dụng văn hóa Da Đỏ. Vì bị áp lực quá mạnh từ nhiều phía, nhất là các nhà lập pháp và các tài phiệt Mỹ, chủ của đội banh đổi tên nó thành “The Washington Commanders” (7).
 
4) Một thành viên của nhóm đa số chấp nhận một yếu tố của nền văn hóa thiểu số mà không chịu hậu quả trong khi các thành viên của nhóm thiểu số phải đối mặt với phản ứng dữ dội vì cùng một yếu tố văn hóa là chiếm đoạt văn hóa.

chiem dung 8
“Dreadlocks” hay “locs” (8), kiểu tóc bím hay rối kết dính lại với nhau như những sợi thừng, từ lâu đã gắn liền với văn hóa Da Đen — mặc dù khá nhiều người không phải da đen cũng để tóc theo cách này. Mặc dù vậy, trong quá khứ, người da đen đã phải đối mặt với sự phân biệt đối xử vì để kiểu tóc truyền thống của họ, kể cả tóc kiểu “locs”. Người da đen mang “locs” bị cấm không được diễn hành khi tốt nghiệp trung học, bị từ chối việc làm, nghi oan là họ sử dụng ma túy và bị phân biệt đối xử.
 
Do sự phân biệt chủng tộc mang tính hệ thống, người Da Đen phải đối mặt với hậu quả khi mang kiểu tóc “locs” trong lúc người không phải da đen thì mang “locs” mà không bị hậu quả gì cả. Những người không phải da đen để tóc theo kiểu “locs” là có hành vi chiếm đoạt văn hóa.
 
Như những ví dụ này cho thấy, chiếm đoạt văn hóa có thể có những hậu quả rộng rãi. Nhưng tựu chung tất cả đều là kết quả của việc một người quyền lực hơn (thuộc nhóm đa số, như Da Trắng) thiếu chu đáo và tôn trọng lúc tương tác với người khác (nhóm thiểu số, như Da Đen, Da Đỏ) — một động thái có hại cho dù đó là cố ý hay không.
 
Tóm lại, ý niệm “chiếm dụng văn hóa” phần lớn là phát xuất từ Mỹ nơi các nền văn hóa lớn nhỏ (về dân số) chung đụng nhau và hiện nay bốn chỉ tiêu “Justice, Equity, Diversity, Inclusion” hay JEDI (Công lý, Công bằng, Đa nguyên, Dung nạp) là tôn chỉ cần học tập cho phe tiến bộ (progressives). Nhưng các nhà phê bình nó (phe bảo thủ) thì nhìn thấy trong việc sử dụng ý niệm này là một thái độ cố ăn nói cho “phải đạo về mặt chính trị” (politically correct, đúng đường lối [phe tả] hay gọi tắt là PC) nhằm cản trở quyền tự do ngôn luận và sáng tạo của người dân Mỹ. Những người khác thì cho rằng cần phải phân biệt việc sử dụng có hại (để trục lợi thương mại, có ác ý hoặc do rập khuôn thành kiến) các yếu tố văn hóa đến từ các nền văn hóa từng bị thống trị trong quá khứ và sự trao đổi, giao lưu giữa các nền văn hóa trong lịch sử có khả năng đem đến những kết quả tốt đẹp.
 
Cuối cùng, thật khó mà áp dụng ý niệm này ở Việt Nam, một nơi không có những động lực rất mạnh mẽ về phân biệt chủng tộc hay đa dạng văn hóa của nước được gọi là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, tuy Việt Nam cũng bao gồm nhiều nền văn hóa thiểu số khác nhau ngoài đại đa số người Kinh.
 
Những khái niệm về quyền lực, kỳ thị chủng tộc của Mỹ sẽ rất khó được áp dụng vào hoàn cảnh trong nước Việt Nam để dùng từ “chiếm dụng văn hóa” hoặc giúp phê phán một hành động nào đó có phải là chiếm dụng văn hóa hay không.
 
Theo TS Lư Thị Thanh Lê, Đại học Quốc gia Hà Nội, người nghiên cứu văn học, văn hóa dân gian các tộc người ở Việt Nam và nền công nghiệp văn hóa: “Hiện nay, ở Việt Nam, chưa có những quy định mang tính pháp lý trực tiếp về vấn đề chiếm dụng văn hóa. Giới nghệ sĩ và những người thực hành nghệ thuật hiện nay hầu như chỉ có thể tham khảo những tài liệu trong và ngoài nước như Công ước UNESCO về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (2003), Công ước UNESCO về Bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt về văn hóa (2005), Luật di sản Việt Nam, các quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn…”(9)
 
Tuy nhiên, thế giới càng ngày càng phẳng, tìm hiểu thêm về “chiếm dụng văn hóa” cũng giúp chúng ta hiểu thêm về mình (với quá khứ bị trị và có thể ít nhiều mặc cảm yếu kém về văn hóa), về người khác (tây phương từng đô hộ và áp đặt văn hóa của họ) và có thể tôn trọng hơn, có một ý thức lành mạnh hơn về văn hóa và lịch sử của mình cũng như của những nhóm dân tộc hay sắc tộc khác.
 
Hồ Văn Hiền
(9/2022)
 
Chú thích:
 
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một câu hỏi thường trực trong tâm trí người tiêu dùng là: “Nên chọn rau củ quả tươi hay đông lạnh?” Trái với quan niệm phổ biến cho rằng đồ đông lạnh chưa ít chất dinh dưỡng hơn đồ tươi, các nghiên cứu khoa học và nhiều chuyên gia lại cho thấy một bức tranh khác, phức tạp và thú vị hơn nhiều. Một nghiên cứu đã so sánh giá trị dinh dưỡng của nhiều loại thực phẩm như bắp, cà rốt, bông cải xanh (broccoli), rau cải bó xôi (spinach), các loại đậu, đậu xanh, dâu tây (strawberries) và dâu xanh (blueberries) ở hai dạng đồ tươi và đồ đông lạnh. Kết quả cho thấy lượng vitamin trong rau củ quả đông lạnh “tương đương hoặc thậm chí cao hơn” so với rau củ quả tươi. Các nghiên cứu khác cũng xác nhận rằng sự khác biệt lớn về hàm lượng dinh dưỡng giữa hai loại thực phẩm này chỉ xảy ra khi rau củ quả tươi bị mất dưỡng chất sau vài ngày để trong tủ lạnh.
Đi bộ là một trong những hình thức vận động đơn giản và phổ biến nhất để giữ sức khỏe. Thế nhưng, chỉ cần thử bước lùi vài bước, lợi ích thậm chí còn nhiều hơn. Đi bộ kiểu ngược về phía sau, đi lùi, hay còn gọi là “retro walking,” đang ngày càng thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu và thể thao. Không chỉ giúp cải thiện thăng bằng, phương pháp này còn kích thích những nhóm bắp thịt ít được sử dụng và thậm chí còn có tác dụng tích cực đến não bộ.
Sự sống trên Trái Đất tuy phức tạp nhưng lại được hình thành từ một số ít thành phần cơ bản. Chẳng hạn, DNA và RNA của chúng ta chỉ được cấu tạo thành từ năm nucleobase, trong khi khoảng 90.000 loại protein khác nhau trong cơ thể đều được tạo nên từ 20 loại axit amin. Mẫu vật mà tàu vũ trụ OSIRIS-REx đem về trái đất từ tiểu hành tinh Bennu cho thấy sự hiện diện của cả 5 loại nucleobase – adenine, guanine, cytosine, thymine và uracil, cùng với các chất khoáng chưa từng thấy trước đây trong đá ngoài vũ trụ. Kết quả nghiên cứu, được công bố trên tạp chí Nature Astronomy, còn cho thấy Bennu chứa nhiều loại muối khác nhau, vốn được cho là có vai trò quan trọng trong giai đoạn sơ khai của sự sống.
Dopamine, thường được mệnh danh là “hormone hạnh phúc,” từ lâu đã được xem như nguồn cơn của những cảm xúc vui vẻ, phấn khởi sau những lần mua sắm thỏa thích hay thưởng thức một tô phở ngon lành. Sự quan tâm đối với dopamine được thể hiện rõ ràng qua hàng ngàn clip trên TikTok, mọi người chia sẻ cách điều chỉnh dopamine, từ việc tìm cách tăng cường hoặc hạn chế dopamine hàng ngày, cho đến các khái niệm như “cao trào dopamine” (dopamine rushes), “thiếu hụt dopamine” (dopamine withdrawals), “cai dopamine” (dopamine fasts), hay “tái thiết lập dopamine” (dopamine resets).
Trong cuộc sống tất bật hàng ngày để mưu sinh, có người luôn thấy mình không có đủ thời gian để nghỉ ngơi và giải trí. Thậm chí có người làm ‘đầu tắt mặt tối’ cả đời mà vẫn không thấy đủ. Họ muốn có thêm thì giờ để làm những việc mình thích. Nhưng khổ nỗi, mỗi ngày chỉ có 24 giờ, mỗi năm chỉ có 12 tháng, và những người sống hơn 100 tuổi thì chẳng có mấy ai? Tuy nhiên, làm việc nhiều quá sẽ dễ đưa tới căng thẳng về thể chất và tinh thần để rồi kéo theo nhiều hệ quả tiêu cực, mà trong đó có việc sút giảm năng suất lao động và bệnh hoạn. Những nghiên cứu của y học ngày nay đã cho chúng ta thấy điều đó và khuyên con người nên có thì giờ cho sự nghỉ ngơi và giải trí.
Với lượng thông tin khổng lồ trong tầm tay, ngày nay chúng ta thường có xu hướng đọc lướt để tiếp nhận nội dung nhanh chóng. Nhưng các chuyên gia nghĩ gì về thói quen đọc này—và liệu bạn có nên thay đổi cách đọc của mình?
Tại sao không thử làm theo những cách mà khoa học ủng hộ này để đem lại hạnh phúc nhiều hơn trong đời bạn? Một vài người sinh ra hạnh phúc hơn những người khác. Nhưng cho dù bạn thuộc loại người ca hát yêu đời trong lúc tắm và nhảy múa trong mưa, hay là loại người có khuynh hướng khắc khổ hơn, thì hạnh phúc không chỉ là điều gì đó xảy ra đối với chúng ta. Tất cả chúng ta có thể thay đổi tập quán để theo đuổi nó nhiều hơn trong cuộc sống của mình.
Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ là một trong những vị trí quan trọng nhất trong nhánh hành pháp liên bang, với vai trò đứng đầu Bộ Tư pháp (DOJ) và chịu trách nhiệm thực thi pháp luật. Nhưng công việc cụ thể của bộ trưởng tư pháp là gì?
Cháy rừng khiến khói lửa bao trùm bầu trời Los Angeles trong khi lực lượng cứu hỏa đang nỗ lực dập lửa. Những trận hỏa hoạn kinh hoàng đã càn quét qua khu vực, thiêu rụi hơn 10,000 công trình, phần lớn là nhà dân, biến nhiều khu vực như Pacific Palisades, Altadena, Pasadena và các cộng đồng khác ở California chỉ còn lại hoang tàn. Khi lệnh sơ tán được gỡ bỏ và người dân bắt đầu trở về nhà, một mối nguy hiểm khác đang rình rập và đe dọa mọi người: ô nhiễm nguồn nước uống. Điều đáng lo ngại là nhiều người không nhận ra rằng hệ thống cung cấp nước uống có thể bị ảnh hưởng nặng nề bởi cháy rừng cùng nguy cơ các hóa chất độc hại có thể xâm nhập vào nguồn nước.
Số người đọc sách để cho vui có vẻ đã và đang sút giảm dần. Năm mươi phần trăm (50%) người lớn tuổi tại Anh Quốc nói rằng họ không đọc sách thường xuyên (tăng 42% từ năm 2015) và hầu hết mọi người ở lớp tuổi từ 16 đến 24 nói rằng họ chưa bao giờ đọc sách, theo nghiên cứu của The Reading Agency cho biết. Nhưng điều đó ngụ ý gì? Sự ưa thích của con người đối với việc xem video thay vì đọc văn bản có ảnh hưởng tới não bộ hay sự tiến hóa của chúng ta không? Những người đọc sách giỏi thực sự có cấu trúc não bộ gì? Nghiên cứu mới của Mikael Roll, một giáo sư âm vị học của Đại Học Lund University, Thụy Điển, được in trong tạp chí Neuroimage, đã tìm ra câu trả lời cho những điều đó.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.