Hôm nay,  

Người thứ ba

13/02/202220:13:00(Xem: 3545)

Valentine's Day -- Truyện

 

i-luv-u

Khi ra trường, bốn đứa chúng tôi nhận nhiệm sở bốn trường khác nhau, nhưng cứ vài ba tuần lại tụ họp gặp gỡ, đi chơi. Bữa đó, cô nàng ít nói nhất trong đám thông báo mới có người yêu. Chúng tôi hớn hở:

 

– Tin vui! Tin vui! Chàng nào có thể phá tan trái tim băng giá của nhà ngươi vậy?

 

Nó e dè thú nhận:

 

– Là thầy hiệu trưởng trường tao đang dạy đó!

 

Chúng tôi đồng thanh hốt hoảng:

 

– Trời! Cái ông Thầy hơn mày mười bốn tuổi, đang có vợ và hai con đó sao??

 

– Thế giới này thanh niên trẻ trung nhan nhản, sao lại nhào vô con đường “em mới yêu lần đầu, còn anh đã yêu… nhiều lần sau?”

 

– Xinh đẹp như mày, gật đầu là bao nhiêu cây si run rẩy, hà cớ gì đi chọn hàng đã có chủ?

 

Nó nhìn chúng tôi một lượt rồi phân trần:

 

– Mấy bà cũng đã và đang yêu phải không, chắc cũng biết con tim có lý lẽ riêng…

 

Tôi cướp lời nó:

 

– Đồng ý, đồng ý! Nhưng trong trường hợp này, phải cố quên đi, nhất định phải quên đi!

 

Nó đáp không cần suy nghĩ:

 

– Trái tim chớ có phải cái máy đâu, mà kêu đóng là đóng, kêu mở thì mở?! Mong mấy bà thông cảm và tôn trọng chuyện của tui.

 

Nó yêu cầu sao thì tụi tôi nghe vậy, chớ trong lòng ai cũng tiếc nuối, hoang mang. Nó là đứa hiền nhất, nhút nhát và cũng xinh đẹp nhất nhóm. Trong khi chúng tôi quậy phá thì nó luôn đóng vai trò tháp tùng, không tham gia nhưng luôn mim mỉm cười ủng hộ những trò đùa của nhóm. Tôi hay ngắm đôi mắt đẹp trên khuôn mặt ngây thơ thánh thiện của nó, rất giống khuôn mặt nàng Meggie trong bộ phim “Những Con Chim Ẩn Mình Chờ Chết”. Ai dè, cô bé Meggie trong phim có mối tình ngang trái với Cha Ralph, thì nhỏ bạn “Meggie Việt Nam” của chúng tôi lại rơi vào mối tình đầu cũng trái ngang không kém. Nhưng Cha Ralph còn có “nhan sắc” vạn người mê, xứng đôi vừa lứa với Meggie, còn nhỏ bạn tôi, nghĩ sao đi yêu ông Thầy hiệu trưởng chả có gì nổi bật, thấp người, hơi đen, khuôn mặt dưới trung bình và đặc biệt là đang có vợ con đùm đề. (Chẳng lẽ nó nói đúng, con tim có tiếng nói riêng, hoặc là “bùa mê thuốc lú” là có thật?) Khỏi nói cũng biết gia đình nó bị sốc cỡ nào!

 

Nó và tôi thân nhau lắm, vì hai đứa cùng tuổi Ngọ, cùng nhỏ hơn hai nàng còn lại trong nhóm một hai tuổi, và cùng mồ côi mẹ. Trong lớp, nó ngồi cạnh tôi, được tôi nhiều lần cho cóp bài kiểm tra, bù lại, mỗi khi lãnh gạo và thịt tiêu chuẩn cho giáo sinh Sư Phạm thì sau giờ học nó ở lại lãnh giùm tôi. Nó là con nhà giàu, ở ngay trung tâm thành thị, căn nhà lầu đúc bốn tầng, số 400 đường Hai Bà Trưng, Quận Một (khác với địa chỉ nhà tôi có tới mấy cái "sẹc" và vài con hẻm, lần đầu ai đi tìm nhà tôi cũng phải lạc vào… mê cung). Tôi thường xuyên ghé qua nhà nó ăn ngủ lúc còn đi học. Những ngày gần Tết, hai đứa ngồi trên sân thượng lộng gió nhìn xuống đường, xe cộ ngược xuôi tấp nập về hướng chợ Tân Định sắm Tết, lòng cũng rộn ràng theo không khí nao nức mùa Xuân. Trước khi tôi ra về, nó thường dẫn tôi qua quán ăn vặt kế bên nhà, của một bác người Bắc chuyên bán các món ăn chơi thanh lịch, món nào cũng trong cái chén nhôm nhỏ xíu, để trong tủ lạnh: bánh flank, bánh bông lan, sương sa, chè bồ cốt, xôi vò, rượu nếp… rất ngon. Còn nó mỗi khi đến hẻm nhà tôi cũng mê mẩn khoai mì trộn dừa, cóc ổi ngâm, chuối chiên, khoai chiên, vậy là công bằng, chẳng ai nợ nần gì ai, dù tính ra thành tiền, tôi … có lời chút đỉnh!

 

Nó thương và tin tưởng tôi nhất trong nhóm. Từ ngày yêu ông Thầy, nó hay tâm sự cho tôi nghe những lần đi chơi lén lút với Thầy. Tôi là người duy nhất nó lôi cả ruột gan phèo phổi ra chia sẻ, rủ tôi đến nhà ông Thầy lúc ổng vắng nhà để quan sát gia cảnh, vợ con của ổng. Nghe nó kể lể (có khi còn khóc lóc) thấy thương lắm, nhưng sau đó tôi lại áy náy không yên, vì có cảm giác đang lừa dối gia đình nó, nhứt là lần nó đi chơi Vũng Tàu với ông Thầy mà nó dám cả gan nói dối với gia đình là đi ... với tôi! Mẹ nó mất sớm, ba nó lúc ấy đang nằm bệnh triền miên, mấy anh chị của nó thương tôi như em gái trong nhà, họ rất tin cậy và nhờ tôi khuyên bảo nó rời xa mối tình này. Tôi bị kẹt cứng giữa hai bên, biết chọn ai bỏ ai?

 

Tôi bàn với hai cô bạn còn lại, và trong một lần lý trí mạnh mẽ, chúng tôi quyết định theo phe “chính nghĩa”, bí mật báo cáo cho gia đình nó nhất cử nhất động của nó cũng như những buổi hẹn hò với ông Thầy.

 

Một thời gian sau, phát hiện ra tôi là “điệp viên hai mang”, nó nổi giận đùng đùng và từ mặt cả ba đứa chúng tôi. Nếu chúng tôi tìm đến nhà thì nó chui vào phòng khoá cửa, để chúng tôi dưới phòng khách nói chuyện với anh chị của nó, có khi nó ló đầu trên cầu thang, đuổi thẳng chúng tôi về. Nếu chúng tôi tìm đến trường thì nó quăng cục lơ nhìn đi chỗ khác, thậm chí có lần nó còn chỉ thẳng vào mặt tôi:

 

– Bà đó! Tôi tin tưởng bà như thế nào, mà bà lại nhẫn tâm bán đứng tôi? Từ nay bà đừng nhìn mặt tôi nữa, đừng bao giờ, nhớ chưa!!!

 

Tôi cúi đầu líu ríu chấp nhận thương đau, chớ nào dám thanh minh thanh nga thanh kim huệ với con tim đang yêu say đắm của nàng, vì nó nói cũng không sai. Tôi đã không giữ lời hứa, đã phản bội lòng tin của nó, đã  “đâm sau lưng chiến sĩ”, còn biết mở miệng than vãn “oan Thị Màu” với ai?!

 

Hai năm sau, chúng tôi nghe tin ông Thầy ly dị vợ và sắp làm đám cưới với nó (gia đình nó đã chịu thua). Được nó hẹn đến nhà để lấy thiệp cưới, chúng tôi sung sướng vội vã kéo đến. Sung sướng vì nó còn thương chúng tôi, tình bạn vẫn còn. Lúc ba đứa tôi gặp mặt nó sau một thời gian dài, ai cũng ngượng ngùng, không nói nên lời, vì biết bao nhiêu công sức đổ ra, tìm “mưu kế” cùng với gia đình nó để đánh phá, chia rẽ, hãm hại mối tình này, nhưng kết quả thì ngược lại, “đôi trẻ” vẫn yêu nhau trong sóng gió phong ba, đạp lên dư luận thị phi để đến với nhau công khai, danh chính ngôn thuận. Chúng tôi nhận thiệp, chưa kịp nói gì, nó đã phán một câu xanh rờn:

 

– Người đời chỉ biết lên án, kết tội người thứ ba, chớ đâu ai hiểu trong chăn mới biết chăn có rận. Nếu một gia đình thật sự hạnh phúc thì chẳng có ai chen chân vô được hết á!

 

Tôi tính lên tiếng tranh luận theo thói quen, nhưng nhìn mặt nó nghiêm nghị quá, tôi không dám hé môi, sợ nó lại nổi giận... đòi lại thiệp cưới.

 

Lúc tiễn chúng tôi ra về, tôi nán lại đứng riêng với nó, cười thẹn thùng:

 

– Giờ bà còn giận tui nữa không nà?!

 

Nó liếc tôi:

 

– Giận thì đứng đây với bà làm chi?! Nhưng tui đã hứa với lòng, nếu kiếp sau còn vướng vào tình yêu gập ghềnh nữa thì sẽ không bao giờ kể cho bà nghe.

 

Vậy là tôi đã mất hết “uy tín” với nó rồi sao? Mà thôi, kiếp sau còn xa lắm, tôi còn dư thời gian để sửa đổi cái tánh nhiều chuyện.

 

Đám cưới diễn ra ấm cúng trên lầu hai của căn nhà. Chúng tôi âm thầm rủ nhau mặc đồ gọn gàng đến chung vui với nó nhưng vẫn cảnh giác, lỡ bà vợ cũ của ông Thầy xuất hiện “phá đám” thì còn chạy cho lẹ, kẻo mang vạ vào thân.

 

Từ đó, vợ chồng nó sống hạnh phúc cho đến nay với hai đứa con. Thằng con trai giống mẹ nên đẹp trai, hiền lành, đã tốt nghiệp Đại Học Bách Khoa. Đứa con gái giống bố, cái mỏ dầy cong vếu không khép lại được, nhưng được cái đôi mắt ướt rượt, khéo ăn khéo nói, vừa đậu vào Đaị Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, Sài Gòn. Còn nó, chưa bao giờ gọi chồng là Anh, mà vẫn gọi Thầy xưng Em ngọt xớt suốt bao nhiêu năm qua, dễ thương không bà con?!

 

Hồi cuối năm tôi phone thăm nó, nghe tiếng bếp núc lạch cạch, tôi hỏi:

 

– Thầy của bà đâu rồi?

 

– Kế bên đây chớ đâu! Hai vợ chồng về hưu suốt ngày xem phim nghe nhạc, cơm nước với nhau, vì hai đứa nhỏ đi làm đi học miết.

 

– Bà đang làm gì đó?

 

– Từ hồi có dịch tới giờ, tui vẫn làm ruốc chà bông dự trữ trong nhà, Thầy thích món này lắm.

 

Tiếng Thầy vọng vào phone:

 

– Nàng ấy thích mà cứ đổ thừa cho Thầy đó Loan ơi!

 

Tôi nghe nó nguýt Thầy một cái rồi cười khúc khích...

 

Thì ra câu "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở" đúng với ai không biết, còn với nhỏ bạn của tôi thì "Đời vẫn vui khi đã vẹn câu thề"!

 

– Kim Loan

(Edmonton, Valentine 2022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.