Hôm nay,  

Tháng Tư Về

28/04/202116:28:00(Xem: 4600)

Minh thuy Thanh noi


  Nhìn lịch giật mình, ngày tháng trôi nhanh quá, mới đó đã đến tháng tư đen. Từ khi bị dịch Vũ Hán tôi không được đi dự ngày buồn 30 tháng Tư năm 2020, năm nay với tình hình này chắc ban tổ chức cũng khó thực hiện. Dù vậy nhưng ký ức tôi sống dậy mãnh liệt những ngày tháng ấy ...


   Khắc Khoải       

Đến tháng tư đen nhắc nhở rồi 

Gương nhìn quá khứ trở về thôi

Ai đi tù ngục sâu rừng núi 

Kẻ trốn ghe thuyền đắm biển khơi

Tê tái chia tay buồn thấm cảnh 

Xót xa giã biệt khổ đeo người 

Bao nhiêu chuyện tủi sầu non nước 

Trăn trở đêm dài thả mộng trôi 

                   MTTN 


Còn nhớ năm 2019 ...Chị Phương Hoa và tôi đi xem cuốn phim “30 Tháng 4 Năm Đó Bác Ở Đâu” do đài Dân Sinh và hội IRC phối hợp tổ chức.

 

Phim tài liệu ghép lại với các hình ảnh sưu tầm từ những phút cuối tháng Tư năm 1975...Nhìn ngày cuối các anh lính vẫn ôm súng ở nhiều địa phương, chung sức chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, áo rách sờn vai, mặt mày hoang mang như chim lạc tổ... Cảnh chiếu tiếp những người tù lao động trong rừng núi, trong trại, thân hình tiều tuỵ, nét mặt buồn xo khắc khổ...Tiếng thuyết minh nhắc nhở về những vị anh hùng Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Nguyễn Văn Long, Hồ Ngọc Cẩn ... Không khí lắng đọng, hình như mọi người đang xúc động tâm tư, đang khóc với hình ảnh đau thương đất nước miền Nam ngày cuối 30 tháng 4 năm 1975.

 

Sau buổi chiếu phim, nhân chứng sống là Trung uý Lê Ngọc Danh, Tùy viên Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư lệnh Quân đoàn 4 vùng 4 Chiến thuật), người đã sát cánh bên tướng Nam, lên có đôi lời kể về những giờ phút cuối của vị Tướng anh dũng này. Ông kể trong nỗi xúc động nghẹn ngào...


  Chiều cuối tướng Nam đi vào Quân y viện thăm anh em thương phế binh, các anh em khóc nói “Thiếu Tướng đừng bỏ chúng tôi“.

Ông an ủi vỗ về:

- Tôi không bỏ, tôi ở lại với anh em ...

Trở về tư thất, ông thắp 3 nén hương trước bàn Phật, sau đó người Tùy viên nghe tiếng súng nổ..........


Để kết thúc buổi chiếu phim, người xướng ngôn viên nêu lên câu hỏi:

“30 tháng Tư ngày ấy bác, anh ở đâu? chị ở đâu?....

 

Ra về lòng tôi nặng trĩu… Bốn mấy năm trôi qua, cuộc sống đã thay đổi, nhưng những người dân miền Nam khó thể quên chuyện ngày ấy. Tiếng Trung uý Lê Ngọc Danh kể về vị anh hùng Nguyễn Khoa Nam vẫn vang trong đầu cho đến giờ phút này. Đêm trăn trở, tôi thức dậy tràn nghiên theo thi hoạ:

 

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam

 

Thiếu Tướng hiên ngang ở lại thành

Quân hoài quý mến lớp đàn anh

Giờ cùng ước nguyện còn thơm tiếng

Phút chót câu thề mãi sáng danh

Nước mất buồn đau tìm lối tử

Nhà lìa khổ nhục thoát đường sanh

Can trường súng nổ ngàn thu biệt

Họ Nguyễn Khoa Nam sử sách dành

Minh Thuý Thành Nội 


    Giờ phút cuối nghe đài thông báo năm nay (2021) buổi tưởng niệm sẽ tổ chức tại khu Century thuộc thành phố San Jose do Bác Sĩ Phạm Đức Vượng đảm trách. Tôi thấy lòng phấn khởi như máu chảy về nguồn, cùng tâm trạng của những kẻ lưu vong tìm về tổ ấm tưởng nhớ đến ngày Quốc Hận cho vơi bớt nỗi niềm buồn tủi.

***


Hôm nay ngày 25 tháng 4 năm 2021. Buổi sáng trời âm u không có nắng, mây đen từng vùng. Đến nơi đã thấy hàng cờ vàng nối dọc ngoài đường story. Các hội đoàn tề tựu chuẩn bị mọi thứ. Đúng 11 giờ buổi lễ bắt đầu, tôi thấy có sự hiện diện của Thị Trưởng thành phố Westminster Tạ Đức Trí và luật sư Nguyễn Quốc Lân từ Nam Cali lên tham dự. Chương trình bắt đầu buổi lễ chào Quốc Kỳ Mỹ, Việt Nam. Mỗi lần được hát bản Quốc Ca VN thì kỷ niệm ùa về những buổi sáng thứ hai trong sân trường, cả lớp được đứng hát trước cột cờ, ngày xưa hát với tâm trạng bình thản vô tư, bây giờ hát nhưng tim đập mạnh..., nửa vui vì được hát và nửa như se thắt con tim. Kế tiếp lễ dâng hương Tổ Quốc và Lễ tưởng niệm các vị anh hùng “Sinh vi Tướng, Tử vi Thần” đã tuẫn tiết trong những ngày mất nước. Đèn hương nghi ngút vinh danh các anh hùng vị quốc vong thân, đúng là “Anh Hùng tử, khí hùng bất tử”.

    

   Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng

  

   Bình Long trận đánh diễn oai hùng, 

   Quyết dẹp quân thù núp ẩn bưng.

   Nếm mật, bùn dơ cùng rắn rít, 

   Nằm gai muỗi độc với sâu rừng.

   Yên bề trở lại dân chào đón, 

   Vững bước quay lui vợ tủi mừng.

   Nước loạn, nhà tan thề tuẫn tiết,

   Anh hùng đáng phục Tướng Lê Hưng.

                         MTTN



Thiếu Tướng Phạm Văn Phú 


Tướng Phạm Phú gương đầu 

Uống liều thuốc tử mau 

Anh hùng lời hậu thế 

Dũng khí tiếng đời sau

Tỵ nạn ông tràn hận

Lưu vong bạn ngập sầu 

Bàn vong người tuẫn tiết

Tưởng niệm nỗi buồn đau

                MTTN



Chuẩn Tướng Trần Văn Hai


Chiến sự nguy nàn cảnh bỏ đi

Lời mời tổng thống chẳng ngờ nghi

Sư đoàn bảy bộ binh tư lệnh

Chuẩn Tướng Trần Hai vẫn đảm vì 


Ngày cuối tháng tư đất nước tan

Hai mươi viên thuốc quyết không hàng 

Đồng Tâm căn cứ nơi làm việc 

Cái chết uy nghi đã chuẩn dàn 

                 MTTN



Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ 


Tử thủ vùng Lai Khê phút cuối 

Anh Hùng chẳng sợ đuổi đoàn quân

Bữa cơm măng vịt tình thân

Là giờ phút cuối nghĩa ân trọn kề


Viên đạn súng Colt thề quyết giữ 

Can trường “Vị Quốc Tử Theo Thành”

Bởi đau đất nước tan tành

Xem thường cái chết sử sanh nhắc hoài


Quốc hận tháng Tư đài tưởng niệm 

Bàn di ảnh khói điểm làn hương

Lòng dân đau xót mến thương

Âm thầm giọt lệ kính tương ngày buồn 

                              MTTN 



         

        Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn 


   Tổ quốc mang ơn lịch sử bù 

   Anh Hùng Hồ Ngọc Cẩn bao thu

   Hăng say quyết tử gìn quân đội 

   Nhiệt huyết can trường giữ chiến khu 

   Ngạo nghễ hiên ngang khi nhốt ngục

   Oai nghi thách thức lúc giam tù 

   Bị đem xử bắn không nao núng 

   Điểm mặt la to bọn giặc thù 

                            MTTN


    Trung Tá Nguyễn Long Cảnh Sát


   Nhớ buổi đau lòng chuyện bảy lăm

   Tháng tư phút cuối phận con tằm 

   Anh hùng mạnh dạn nào lo hãi

   Tướng tá can trường khó dọa hăm

    Chẳng đợi quân thù hành đạn súng

    Đâu chờ bọn giặc xử dao găm

    Nguyễn Long Cảnh Sát không nao dạ

    Tuẫn tiết hiên ngang dáng thẳng nằm

                                   MTTN

           

   Nhìn di ảnh tôi thấy lạnh toàn thân khi nghe đọc tiểu sử các vị đã tìm cách chết hiên ngang quyết không đầu hàng quân giặc. Mọi người đứng yên chờ đến phiên mình để được thắp cây nhan với tất cả lòng thành kính xúc động. Đang lúc làm lễ trời đổ cơn mưa như nhỏ lệ dùm niềm đau của những người con xa xứ, lưu lạc khắp nơi đã về đây,  cùng chung tâm trạng của kẻ mất nước với nỗi buồn dấy động mạnh lên mỗi khi tháng tư về. 

Tiếp tục chương trình các vị đại diện trong guồng máy chính quyền, đại diện các đoàn thể lên có đôi lời .....về ngày 30 tháng Tư. 

Phần văn nghệ với những bài hùng ca như “Việt Nam Tôi Đâu” (Việt Khang), “Đáp Lời Sông Núi” (Trúc Hồ), “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” (Nguyễn Đức Quang) v...v...Đến bài hát “Tấm Thẻ Bài” (Huyền Anh) 


Sau cuộc chiến này còn chi không anh?

Còn chi không anh?

Hay chỉ còn lại tấm thẻ bài

Đang lạnh lùng trên tay em


Giọt máu nào là của Mẹ 

Niềm tin nào là của em 

Ôi trên tấm thẻ bài này

Tấm thẻ bài này, đã từng

Ấp ủ tất cả giấc mộng yêu đương


Mộng yêu đương không bao giờ đến 

Không bao giờ đến nữa vì anh

Không còn mang tấm thẻ bài 

Trở về bên em ....


Lời nhạc làm hồn tôi miên man hồi tưởng về quá khứ, hình ảnh những anh lính Việt Nam Cộng Hòa hiện rõ, những người lính Thương Phế Binh, những chiếc xe cứu thương chạy vào Quân Y Viện trong Mang Cá hàng ngày trên đường Đinh Bộ Lĩnh, những hình ảnh cô nhi quả phụ đội khăn tang đầy các phố, những thước phim tài liệu chiếu lính đi hành quân ngâm nửa người dưới nước băng rừng lội suối, hay những lúc hành quân trở về với tấm thân tàn ma dại... Tại sao đã có hiệp định Geneva 1954 chia đôi đất nước mà miền Bắc cứ muốn xâm lấn miền Nam? trong khi các anh lính chiến miền Nam chỉ đánh giặc để tự vệ, bảo vệ làng mạc thôn xóm, lo cho người dân an ổn sinh sống trong thanh bình...Càng nghĩ mắt tôi càng mờ dần thấm thía với bản nhạc “Tấm Thẻ Bài”.


Thương Người Chiến Sĩ VNCH


Cộng Hoà anh lính thuở xa xưa

Hình ảnh oai phong kể mấy vừa

Chiến tích quay về ngang ruộng rẫy 

Hành quân ngừng nghỉ dưới cây dừa

Chiều thu đã thắm tình chia sẻ 

Phố hạ chưa phai cảnh đón đưa 

Áo trận sờn vai đời gió bụi

Thương người đội nắng với dầm mưa 

                     MTTN


Buổi lễ kết thúc vào lúc 3 giờ chiều, bước ra xe lòng tôi nhẹ nhõm bớt phần nào sự buồn rầu, vì được gặp gỡ đồng hương, cùng ngồi lại với nhau dưới bóng cờ vàng, những tấm lòng cùng chung cảnh ngộ, cùng đau chung cho vận mệnh của đất nước, tuy không nói nhưng đã được chia sẻ thật nhiều bằng ánh mắt. Nơi đâu có dân tỵ nạn là nơi đó có ngọn Cờ Vàng, cờ chính nghĩa bay phất phới trong gió, cờ trong tim ấp ủ nỗi niềm hy vọng, và cũng sưởi ấm biết bao nhiêu cho những người con đã lưu lạc mất quê hương ...


Tháng Tư Tưởng Niệm 


Tháng Tư cúi mặt ngậm ngùi 

Bao nhiêu ký ức đẩy lùi đau thương

Tỏ lòng kính cẩn nén hương

Anh hùng khí tử nặng vương lòng người


Tháng Tư đã tắt nụ cười 

Bởi giặc miền Bắc lấn trời phương Nam

Hung tàn cướp bóc gian tham

Đọa đầy mọi chốn dân oan thảm sầu


Tháng Tư súng bắn vào đầu

Can trường các vị Tướng câu “tử thành”

Lê Hưng, Nguyên Vỹ quyết hành 

Khoa Nam, Ngọc Cẩn thanh danh bỏ mình


Tháng Tư Phạm Phú quyên sinh

Trần Văn Hai cũng chọn vinh quyết thề 

Nguyễn Long đã chết giờ kề 

Trầm ngâm nhớ lại quặn tê nỗi buồn 


Tháng Tư máu nóng dâng cuồng 

Tháng Tư khắc khoải lệ tuôn mắt mờ 

                    MTTN


Ngày Buồn 


Quốc hận tháng Tư nỗi nhục buồn 

Dù trời đổ lệ giọt mưa tuôn

Đồng môn hải ngoại lòng đau uất 

Bạn hữu lưu vong máu hận cuồng 

Tướng dũng khuôn dung, nào khuất phục 

Người hùng di ảnh, chẳng hàng buông

Bàn hương khói tỏa người thành kính 

Tỵ nạn Cờ Vàng giữ vững luôn

                         MTTN


Dù bệnh dịch vẫn chưa chấm dứt, mọi người đi dự đều mang khẩu trang, trời mưa gió lạnh nhưng tinh thần người Việt ở hải ngoại thật mạnh mẽ, ban tổ chức chung góp bàn tay chuẩn bị thời gian dài vất vả. Chúng tôi vô cùng biết ơn ban tổ chức của Bắc Cali. 

               

Minh Thúy (Thành Nội) 

Mùa Quốc Hận 2021


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.