Hôm nay,  

Tháng Hai tàn đông

09/02/202315:38:00(Xem: 3166)
Tùy bút

IMG_4727


Với tôi, tháng Hai là tháng mùa đông tàn phai, chuẩn bị tâm hồn phơi phới cho những ngày sắp tới. Các bạn tôi giãy nảy lên, xúm vào bảo tôi “nói thách” sớm quá, vì tháng Hai vẫn là mùa đông, nhiệt độ vẫn ở độ âm dưới zero, tuyết vẫn rơi bao la, vậy tàn đông cái nỗi gì!

 

Thì để tôi giải thích cho mà nghe. Này nhé, mùa đông Canada chính thức có 4 tháng lạnh, đó là tháng Mười Một, tháng Mười Hai, tháng Một và tháng Hai. Nhưng tháng Mười Một là tháng lạnh “mở màn”, cái lạnh chớm đông, có gió, có tuyết, có mưa, nói chung là có đủ thứ lạnh lẽo, nhưng thật sự nhiệt độ chỉ “âm sơ sơ”, chưa “âm dã man”, nên chẳng nhằm nhò gì với real Canadians, vì “lâu rồi đời mình cũng quen”, coi như không tính.

 

Đến tháng Mười Hai, bắt đầu lạnh hơn, có những ngày lạnh tái tê, nhưng tháng này là mùa lễ Noel và đón Tết Tây, ai cũng bận rộn mua sắm, trang trí nhà cửa, gửi thiệp, gửi quà cho người thân, nên thời gian qua mau, hết tháng hồi nào không hay. Nói chung, tháng của lễ hội, của hồ hởi mua sắm và ăn uống vui vẻ, thì dù có bão tuyết cũng hổng biết lạnh là gì.

 

Cuối cùng chỉ còn lại Tháng Một và Tháng Hai, là cao điểm của mùa đông, có khi lạnh khủng khiếp, lạnh “thấy bà cố”, nhiệt độ có lúc âm hơn 20 độ C cho đến âm 30 độ C, thậm chí âm 40 độ C, lạnh hơn cả Bắc Cực, nhưng tháng Hai ngắn ngủi, có 28 ngày, Canada còn có ngày Family Day trong tháng Hai, chưa kể Tết Nguyên Đán cũng thường rơi vào tháng Hai, và đặc biệt nhất là có ngày Valentines, nên cái lạnh cũng chả thấm thía gì, vì trái tim đang hừng hực lửa tình. (Yêu mà lị, trời sập còn chả màng nữa là ... bão tuyết!)

 

Cho nên, túm lại, đối với tôi, mùa đông Canada chỉ thực sự là Tháng Một mà thôi, vậy sao không vui không cười mà đón Tháng Hai? “Mùa đông đến, em không mong đợi gì, mùa đông đi, em không hề hối tiếc”. Chúng tôi hay nhại câu hát này mỗi mùa tuyết tan.

 

Dĩ nhiên, tôi vẫn biết, tháng Hai còn lạnh, còn tuyết. Nhưng cái lạnh ghê gớm của tháng Một đã qua rồi, thì cái lạnh của tháng Hai là “chuyện nhỏ như con thỏ”. Còn tuyết hả, đó là “đặc sản” của Canada, cấm cãi! Theo thống kê, trong lịch sử của đất nước này, chỉ có một tháng duy nhất, cho đến nay, chưa có tuyết rơi, đó là tháng Tám (hên quá, là tháng có birthday của tôi!). Có nghĩa là trong quá khứ, ngoài bốn tháng chính thức mùa đông như tôi vừa nói ở trên, thì tuyết đã có rơi lất phất ở những tháng khác, trong đó có cả tháng hè như tháng Sáu, tháng Bảy. Bởi thế cho nên, câu hát của cố nhạc sỹ bay bướm Trần Thiện Thanh “…không bao giờ, không bao giờ giữa mùa hè tuyết rơi…” là sai bét nhé! Mà suy cho cùng, mấy khi tuyết trái mùa kéo dài được lâu, vì gặp nhiệt độ cao thì tuyết sẽ tan đi mau chóng, trả lại đường phố sạch sẽ như sau cơn mưa rào. Mà thôi, Canada mà không có tuyết thì còn gì là Canada, có phải?

 

Trở lại chuyện tháng Hai, tôi gọi đó là Tháng Tình Yêu, vì có ngày Valentines trong tháng. Tôi và một chị bạn văn chương (đang sống bên Pháp) hay nói đùa với nhau rằng, đây là tháng tụi mình tha hồ viết văn, viết thơ về Tình Yêu mà không sợ bất kỳ ai soi mói, bắt bẻ, hay “gieo tiếng ác” là viết chuyện của mình.

 

Sở dĩ chúng tôi nói như thế, vì chúng tôi đã từng là nạn nhân của mấy vụ hiểu lầm (hay cố tình hiểu lầm) của mấy độc giả ngây thơ (hoặc giả bộ thơ ngây). Ví dụ, có lần tôi xem xong bộ phim đầy cảm xúc về đề tài gia đình ly tan, tôi có viết bài thơ “Về Ngang Qua Nhà Cũ”, diễn tả một gia đình đã chia tay, người vợ tự hỏi thầm, nếu anh có dịp đi ngang qua căn nhà cũ, từng là tổ ấm một thời của đôi ta, có căn phòng ngủ còn kỷ niệm mặn nồng, có căn phòng ăn vẫn đợi chờ, có vườn hoa hồng vẫn nở... thì anh có một phút giây nào chạnh lòng, xao xuyến bâng khuâng? Bài thơ tôi post trên facebook, bên cạnh những comments chia sẻ về nội dung bài thơ, về cuộc đời, về nghĩa vợ tình chồng, bỗng có một người chen ngang thiệt… có duyên: “Chị thành thật chia buồn và thông cảm cho hoàn cảnh của em lắm, em gái ơi”.

 

Vụ gì vậy trời? Chia buồn cái gì, thông cảm cái chi, vợ chồng tôi chưa kéo nhau ra toà mà! Không lẽ, bài thơ nào, bài viết nào về Tinh Yêu tôi cũng phải la lên là không phải chuyện của tui? Còn chị bạn của tôi thì có lần viết về “người thứ ba” trong một cuộc tình. Ngờ đâu đụng chạm tới nỗi niềm của mấy bà vợ có chồng trăng hoa, thế là chị ấy phải hứng những lời mỉa mai cay độc, và cả những câu “lên lớp” dạy đời của những người đạo đức (thật và giả), ghê thật!  Người viết, chẳng lẽ nào, không được viết lên mọi khía cạnh của cuộc sống, của muôn mặt Tình Yêu?

 

“Chủ nghĩa lãng mạn, đó là chủ nghĩa tự do trong văn học”. Victor Hugo đã phán như vậy. Ước gì ai cũng hiểu rằng, những người mang nghiệp “cầm viết”, dù là chuyên nghiệp hay nghiệp dư (như tôi), đã lỡ mang trái tim đa sầu đa cảm, mưa cũng buồn, nắng cũng lao xao, lá thu rơi cũng nghe tim buốt nhói, đông về tuyết đổ cũng rung cảm lâng lâng? Thế là viết, thế là để trí tưởng tượng bay bổng, và để thêm phần “ướt át” thì phải có lãng mạn, có day dứt, tiếc nuối, nhớ nhung, thế thôi! Quyết định dzậy đi! Không phải bài truyện bài thơ nào cũng là tâm tình của người viết, nghen?!

 

Nhạc sỹ kỳ cựu Lam Phương đã từng nói: “Tôi làm khoảng 300 bài nhạc tình, đâu có nghĩa là có… ba trăm người yêu”. Trong cuốn sách mới nhất vừa được xuất bản “Lam Phương, Trăm Nhớ Ngàn Thương”, cũng nói về một số bài hát từ tâm tư thật, hoàn cảnh thật của tác giả. Nhưng cũng có rất nhiều bài, là cảm xúc bất chợt trước một khung cảnh hữu tình, không hề có hình ảnh của một bóng hồng nào, rồi tác giả cứ nhắm mắt đưa chân, thả hồn lang thang theo mây gió trời trăng, để ý nhạc tuôn trào, thành một bài hát buồn não nề, cho một cuộc tình tan vỡ, đó là bài Thành Phố Buồn (tưởng tượng mà hay tuyệt vời luôn á). 

 

Hoặc trong một bài báo nào đó tôi đã đọc, ông hoàng viết nhạc bolero nọ, vừa cho ra mắt một bài hát “sến như chưa từng sến”, nức nở tan nát thê lương cõi lòng, tưởng như chết đi sống lại, vì người con gái ấy đã sang sông theo chồng. Ngày hôm sau có một người bạn đến chơi nhà, thấy nhạc sỹ đang ngồi ăn nhậu vui vẻ với bạn bè, chớ có dấu hiệu ảo não “đời vắng em rồi vui với ai” đâu nà!? Hỏi về bài hát “khổ đau” mới ra lò, nhạc sỹ cười ha hả, “thì viết cho nó… mùi mẫn, để câu khán thính giả, chớ ngu gì buồn, ngu gì chết!”

 

Từ đó, để “an toàn trên xa lộ”, tôi cũng rút kinh nghiệm cho riêng mình. Hễ đó là chuyện thật của trái tim tôi, tôi sẽ dặm thêm gia vị đường muối bột ngọt thả dàn, để không ai đoán ra được nỗi lòng của mình. Chẳng dại gì mà thật thà khai báo “cho khắp người đời thóc mách xem” như thời trẻ nông nỗi. 

Còn nếu là chuỵện của thiên hạ xung quanh, tôi viết lại, cũng nhẹ tay cho chút mắm muối, đổi chút tên tuổi. Để sau này có lỡ bị ai đó nổi sùng, mắng vốn: “Sao cô dám đem chuyện nhà tui ra cho mọi người biết?”, thì còn có đường mà… chối, mà chạy tội.

 

Truyện và thơ của tôi sẽ tung đầy hoả mù. Ai tò mò, thích “tám ba điều bốn chuyện” cũng sẽ chẳng bao giờ biết được bài nào là rung động thật, cảm xúc thật, bài nào là viết cho vui, cho đời bớt sầu, bài nào nghe lỏm được từ nhà hàng xóm, bài nào hờn trách người xưa, bài nào nhớ nhung thuở ấy.

 

Còn bây giờ thì tôi không thể rời mắt khỏi khung cửa sổ sau nhà: nắng sớm vàng tươi chiếu rọi xuống những cành cây khô, phản chiếu lấp lánh những mảng tuyết bám trên cây. Dự báo thời tiết tuần này sẽ có mấy ngày nhiệt độ trên zero, nắng rực rỡ. Mai kia mốt nọ, tuyết cũng sẽ còn rơi, nhưng đông đang tàn, và tuyết sẽ tan, trôi đi hết những bụi bặm của mấy tháng qua, cho đất trời thay màu áo mới.

 

Cám ơn mùa đông, tôi được mộng mơ

Giữa tuyết trắng, thấy lòng mình tinh khiết

Có nghĩa gì những chuyện đời hơn, thiệt…

Cũng bọt bèo, như tuyết, sẽ tan đi!

 

Bốn câu thơ này là cảm xúc thiệt của tôi, không có “mắm muối” gì đâu á!

 

-- Kim Loan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.