Hôm nay,  

VU LAN TẢN MẠN -- Hắn và tôi

28/08/202317:19:00(Xem: 5218)
Tản mạn

IMG_6964

 

     Tên hắn là Mai Anh Tuấn.
    Tôi để ý đến hắn, không phải vì cái tên với cái họ “lạ”, họ Mai. Cũng chẳng phải vì hắn là công tử con nhà giàu. Nghe nói ba hắn đi qua Mỹ từ ngày chạy loạn 30/4, nên cuộc sống mấy mẹ con rất ung dung khá giả. Mới học lớp 6 thôi, mà hắn đi học mặc quần tây áo sơ mi “đóng thùng” chỉnh tề, mang giày xăng-đan, tay còn đeo chiếc đồng hồ nữa cơ.
    Tôi thích đôi mắt hiền của hắn, nhìn chúng tôi chơi đùa, khi bị cả lớp tránh xa, vì cái tội... “con nhà giàu”. Giờ ra chơi, thời buổi khó khăn, chúng tôi chỉ được củ khoai lang khoai mì, sang lắm là miếng xôi, cái bánh cam, còn hắn thì gặm bánh mì thịt, nên thường bị đứng bơ vơ ở một góc sân trường.
    Tôi thích nhìn mái tóc của hắn, màu hạt dẻ, mềm mại, khi hắn hất cái đầu thì làn tóc bồng bềnh, vài cọng xoã trên trán, nhìn cũng…hay hay, và chẳng hiểu sao, tôi cũng thích nhìn cánh tay đeo đồng hồ của hắn, khi hắn đưa lên xem giờ, có vẻ rất điệu nghệ, dù hắn chỉ là thằng nhóc tì mười hai tuổi, cũng đã làm cho con nhóc tì là tôi để ý (dù là nhìn lén!). Nhưng với bản tính trẻ con, tôi mê chơi với lũ bạn, không thèm dòm ngó hay bận tâm nhiều đến thằng bạn thuộc “giai cấp” khác. Thậm chí,  còn có rất nhiều lần, bực bội chuyện học hành, hoặc cãi lộn với bạn bè, tôi nổi sùng, “giận cá chém thớt”, đi ngang qua chỗ hắn với cái liếc mắt nhọn hơn dao găm, phớt lờ ánh mắt tội nghiệp của hắn đang nhìn theo dáng đi rất ư là ... hùng hổ của tôi.
    Gia đình tôi có hai căn nhà, một kế bên Chùa Vĩnh Quang, một gần Nhà Thờ Đức Tin, nên tôi là cư dân của hai xóm này. Thuở bé, hễ mùa Vu Lan là tôi theo mấy đứa trong xóm chạy qua Chùa chầu chực thức ăn nhà Chùa phát thí cho… cô hồn các đảng. Lớn lên, tôi có thói quen dừng lại trước cửa Chùa, ngắm vườn Chùa nhỏ xinh với cây Ngọc Lan toả mùi thơm ngát. Hôm đó, tôi vừa có dịp đi ngang Chùa, thì có bóng người bước ra:
    – Chào bạn, nhớ tôi không? Mai Anh Tuấn nè…
    Nghe cái tên là tôi nhận ra cả người, và cả một thời “khi xưa ta bé”, nên hơi ngại ngùng:
    – Bao nhiêu năm rồi nhỉ? Sau năm học đó, bạn đi đâu?
    – Nhà mình dọn qua Xóm Thuốc.
    – Vậy sao hôm nay có mặt ở đây, bộ bên Xóm Thuốc không có Chùa sao?
    – Có chớ! Nhưng tại hồi còn sống, mẹ của mình hay đi Chùa này.
    Đôi mắt hắn, vẫn đượm buồn như năm xưa, giờ còn buồn hơn, khi kể về nỗi đau mất mẹ bất ngờ vì tai nạn, trong khi hắn đang đi chơi ngoài Vũng Tàu nên không kịp nhìn mặt mẹ lúc hấp hối.
    Cây Ngọc Lan trong vườn Chùa rụng rơi mấy nhánh hoa, đậu trên vai hắn. Trên chiếc áo trắng của hắn còn gắn một bông hồng trắng mà tôi chợt nhìn ra. Cơn gió nhẹ thoáng qua, hắn lại hất mái tóc mềm mại như thuở nào, và tôi cũng kịp nhìn trên tay hắn có đeo chiếc đồng hồ. Mọi thứ thực, hư, hiện tại, quá khứ xuất hiện đan xen nhau, trong vườn Chùa rộn ràng kẻ qua người lại, nồng nàn mùi khói nhang, hoà với tiếng mõ tụng kinh từ chánh điện vang xa, và đôi mắt hắn u hoài, tiếc thương, xa xăm…là hình ảnh tôi mang theo về tận nhà, vào trong giấc ngủ mộng mị.
Và tôi biết, tôi chưa bao giờ ghét hắn. Giờ lại càng thấy gần gũi mến thương hơn, không phải vì hắn còn “hất mái tóc màu nâu bồng bềnh”, hay “tay đeo đồng hồ ấn tượng”, mà vì hắn cũng đang giống như tôi, mồ côi mẹ!
 
VẪN LÀ NHỮNG CÂU HỎI
 
Đang bữa cơm chiều, cả xóm bỗng chộn rộn lên vì tiếng khóc của bé Na, tôi cũng nhanh chân chạy qua xem, thấy ba nó là anh Tuấn thất thần, ngơ ngác đưa cho mọi người đọc lá thư của chị Hương, vợ anh, để lại, nói lời xin lỗi gia đình để được xuất gia đi tu, mà không nói tu ở đâu, chùa nào.
    Chị Hương còn rất trẻ, trước đây không phải là “thiện nam tín nữ” xóm Chùa, vì chỉ có những ông già bà cả mới thăm viếng Chùa thường xuyên. Bỗng một năm trở lại đây, chị siêng năng đi Chùa, không những Chùa trong xóm mà cả các Chùa nơi khác. Chồng chị đi làm, chị ở nhà nội trợ nuôi con Na mới hơn 3 tuổi, nhưng nhờ hai bên nội ngoại gần bên nên chị cứ gửi con rồi đi Chùa, lúc đầu còn thỉnh thoảng, về sau thì đi miệt mài, có khi chiều tối đạp xe về nhà còn mặc nguyên bộ đồ lam màu xám. Dẫu vậy, việc chị đột ngột bỏ nhà đi tu, để lại con Na bé xíu vẫn làm cho bà con ngạc nhiên, bàn ra tán vào dữ dội.
    Vài tháng sau, một cô trong xóm đi thăm người quen bên Hóc Môn, tình cờ nhìn thấy chị Hương, giờ đã cạo đầu, là một sư cô, đi chợ với một sư cô khác. Hai sư cô vui vẻ, thân thiết, nói chuyện cười đùa rất ý hợp tâm đầu. Chị hàng xóm liền bám theo đến ngôi Chùa hai sư cô (thật không hổ danh “tình làng nghĩa xóm” quan tâm để ý lẫn nhau), rồi về xóm báo cho gia đình chị Hương (từ nay xin gọi là sư cô Hương). Cả nhà sư cô gồm chồng con, ba má, và mấy chị em liền kéo đến Chùa đó, bé Na gặp mẹ là nhào tới ôm, khóc lóc đòi mẹ, rồi mỗi người một câu, sư cô Hương đành trở về nhà. Nhưng chỉ được vài tuần, sư cô lại bỏ đi, lần này lá thư nói rất rõ, sẽ đi thật xa, đừng ai tìm kiếm để sư được trọn tâm nguyện.
    Dĩ nhiên, bé Na vẫn khóc, anh Tuấn vẫn rầu rĩ âm thầm chăm sóc con thơ, nhưng gia đình chẳng còn muốn tìm kiếm, dù có đôi lần, người ta vẫn bắt gặp sư cô Hương ở đâu đó, vẫn đi với sư cô lần trước, khi thì đi chợ, khi thì đi tụng niệm, hay đi Chùa nào đó, an nhiên thoải mái như là chẳng vướng bận gì.
    Thỉnh thoảng mấy bà mấy cô trong xóm cũng tụm năm tụm ba nhỏ to với nhau, nghi ngờ chuyện đi tu của sư cô Hương, bởi lần nào cũng y chang như lần nào, hễ có ai dòm thấy sư cô Hương thì bên cạnh vẫn là sư cô kia, như hình với bóng, dính nhau như sam, rạng rỡ hạnh phúc phơi phới . Thực hư thế nào, nguyên nhân xuống tóc tìm về cửa Phật của sư cô Hương, chỉ có trời có Phật (và chính sư cô) mới biết, hơi đâu ngồi bàn tán tào lao. Riêng tôi, hình ảnh anh Tuấn cõng bé Na ra đầu ngõ mua cho nó gói khoai mì trộn dừa với muối đậu, rồi hai bố con dắt tay nhau đi dạo loanh quanh trong xóm những buổi chiều luôn làm tôi xót xa .
    Thời gian trôi qua vùn vụt, cách đây mấy năm, tôi theo cô bạn Phật tử đến Chùa Trúc Lâm dự lễ Vu Lan kết hợp với chuyện… thưởng thức mấy món chay khoái khẩu, và cũng để diện kiến Thầy Thích Pháp Hoà, vị giảng pháp nổi tiếng với cộng đồng Người Việt khắp nơi mà tôi là “hàng xóm Edmonton” nhưng lại mới biết.
    Trong lúc xuống bếp xem các sư cô làm thức ăn, tôi bất ngờ nhận ra sư cô Hương. Hỏi ra mới biết có nhóm sư cô cùng Phật tử từ Việt Nam qua Mỹ và Canada viếng các Chùa. Tôi mừng rỡ đến chào người hàng xóm cũ, nhưng Sư cô xua tay, nói không quen biết, chắc tôi lộn người. Tôi bèn kéo sư cô ra một góc riêng, chậm rãi nói rõ nhà tôi có ai, nhà sư cô có ai, tôi chơi với em gái sư cô tên gì, lúc đó sư cô mới hết đường chối cãi, mới chịu nhìn tôi, vội vã hỏi thăm vài câu xã giao. Rồi sau đó Chùa quá bận rộn, chúng tôi không nói được gì thêm.
    Ngày hôm sau tôi quay lại Chùa tìm thì chú tiểu cho biết, sư cô bị cảm không thể tiếp khách. Thực lòng, tôi chỉ muốn gặp lại sư cô để hỏi han về xóm cũ, về gia đình sư cô, về bé Na giờ đây chắc cũng đã là thiếu nữ trưởng thành, chứ không hề có ý gì khác. Ngoài ra, tôi còn có ý chúc mừng, ngơi khen sư cô đã kiên trì với đường tu suốt ngần ấy năm, nhưng không hiểu sao sư cô lại trốn tránh, không muốn gặp tôi? Chả lẽ vì cái quá khứ đã có chồng con, hay vì một lý do nào khác nữa?
    Còn cái câu hỏi từ thuở xưa cả xóm thắc mắc (chứ không riêng gì tôi), tại sao sư cô không chờ bé Na lớn hơn một chút rồi hãy xuất gia, mà lại bỏ nó bơ vơ khi nó còn quá bé bỏng ngây thơ?
Liệu sư cô có thấy tịnh tâm trong tiếng kinh kệ chuông mõ hàng ngày khi mà còn văng vẳng tiếng khóc của con thơ nhớ hơi mẹ, thì đã từ lâu không có câu trả lời, và bây giờ cũng chẳng còn quan trọng.
 
– Kim Loan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.