Hôm nay,  

Mưa Bên Kia Sông

30/08/202400:00:00(Xem: 2566)
 
ben kia xong
Hình minh họa
 
1.
Chiếc xe đò rẽ vào ngả ba Lộ Tẻ, chạy chậm lại rồi ngừng hẳn. Trên xe một số người nhốn nháo, ló đầu ra cửa sổ xem có chuyện gì. Anh phụ xe nhảy xuống vội vàng chạy về phía trước. Đã hơn 2 giờ chiều, trong xe hầm nóng và trở nên ồn ào. Vài phút sau, anh phụ xe trở lại và báo tuyến đường về Rạch Giá đã đóng vì nước lũ về ngập một số đoạn đường dài phía trước. Tất cả bà con phải xuống xe, hoặc tìm nhà nghỉ tạm chờ nước rút, hoặc bao đò máy về Rạch Giá. Đó là một buổi chiều giữa mùa nước nổi, tôi theo dòng người bước xuống xe, trời hanh nắng và đứng gió. Đường xá, đò ghe tôi không biết rành, chắc là phải tìm nhà xin trọ, chờ nước rút. Cũng không có gì gấp gáp, tôi đang trở về trường cho khóa học “chính trị hè" hằng năm cho thầy cô giáo của tỉnh. Định hỏi thăm anh phụ xe về nhà nghỉ, thì thoáng tiếng gọi tên mình:

- Thầy Long... thầy Long...

Quay lại, là người con gái dáng dong dỏng cao, tóc ngang vai và nụ cười với chiếc răng khểnh thật tươi. Bất ngờ, tôi vẫn chưa nhận ra người quen hoặc đã gặp ở đâu, đành cười đáp xã giao.

- Em tên Xuyến dạy trường tiểu học An Hòa. Đã gặp thầy Long ở mấy buổi họp giáo dục huyện... Đông quá, chắc thầy hổng nhớ đâu?
- Gặp Xuyến ở đây, mừng quá. Gọi tên được rồi, đồng nghiệp mà...
- Xuyến từ Long Xuyên về. Chắc là sẽ kẹt nước lụt đến mai. Anh Long có dự định về Rạch Giá chiều nay luôn hông?

Đúng là “ở hiền gặp lành”, tôi gật đầu ngay. Xuyến cho hay, khoảng 1 tiếng đồng hồ nữa có đò máy về Rạch Giá ngay chiều nay. Tôi theo Xuyến đến gặp chủ ghe, dặn chỗ. Xuyến rủ tôi đi ăn tạm gì đó, chuyến đò về tới Rạch Giá chắc cũng phải 8, 9 giờ tối. Bên quán ăn và chuyến đò máy chiều hôm đó, tôi và Xuyến đã quen nhau. Xuyến có nước da ngâm ngâm, dáng đi thẳng, rắn chắc và đặc biệt là nụ cười răng khểnh với bờ môi cong thật đẹp... Để rồi những buổi tan trường sau đó, trên chiếc xe đạp, có hôm Xuyến “đèo” tôi, có hôm tôi chở Xuyến. Nhà Xuyến nằm phía bên doi Gòn, mỗi ngày phải qua đò Tắc Ráng. Gọi bến đò Tắc Ráng nhưng thật ra là một chiếc phà nhỏ đưa người qua bên kia ba nhánh sông: doi Gòn, doi Dừa và doi cây Xăng (?). Nhiều buổi chiều đợi chiếc phà nhỏ, tôi và Xuyến có những giây phút bên nhau thật gần và thật “vội”. Vội đủ để Xuyến thường “chê” tôi: “Bàn tay và môi anh mềm như con gái!”.  “Bàn tay thì được, còn môi.. . Làm sao em biết mềm như môi con gái? Em đã thử môi con gái chưa?”. “Nói bậy không hà. Em chỉ so sánh dzậy thôi mà”.

Khác với bề ngoài cứng rắn, Xuyến rất dễ mũi lòng, nhiều lúc thật yếu đuối. Quê ở tận Xẻo Rô thứ Bảy, cô giáo Xuyến cũng rất giỏi về sông nước, ruộng nương. Một lần cùng Xuyến về thăm nhà, tôi mới biết mình thật sự quá “dở” và thương vô cùng những con người chân chất, một đời sống chết với từng tấc đất bờ kinh. Ba má của Xuyến rất hiếu khách và ít nói. Họ sống đơn giản, tần tảo và chịu đựng. Sự chịu đựng hằn lên những vết nhăn của tháng năm và số phận. Chừng như họ không có sự lựa chọn, mà cam chịu như cây lúa theo mỗi chiều gió ngoài đồng. Mồ hôi và máu của họ đã nuôi dưỡng bao lý tưởng của chiến tranh. Để cuối cùng họ vẫn là nạn nhân câm lặng nhất cho dù ai là kẻ chiến thắng. Sự câm lặng của đất, của những cây lúa chín vàng phải chăng là tiếng nói trung thực của lòng yêu nước? Tất cả đã thành thói quen, đã thành nếp như những đường viền chân chất một đời không đổi... Theo Xuyến đi giăng câu, đặt dớn trên những dòng kinh, bờ ruộng tôi chợt thấy lòng mình thật bình yên. Cuộc sống chừng như chậm lại, mọi nhu cầu tưởng chừng như tan biến, nhẹ tênh. Dưới tán dừa, bên hàng điên điển vàng che bóng là những nụ hôn dài, cuống quýt không kịp thở. Bờ môi tôi tham lam, bờ môi Xuyến cũng không muốn dừng. Nhưng không hiểu sao trong những giây phút đó, đôi mắt Xuyến dường như có chút tư lự, có chút băn khoăn. Hoặc lắm khi đang nói cười, nàng bất thần lặng im trong khoảng trống vô chừng. Hỏi, Xuyến chỉ cười nhẹ và nói "không có gì đâu anh!".
            
Người đàn ông đứng tuổi tự giới thiệu tên Phong, hiện đang làm việc ở trại cây trồng thuốc đông y thị xã Rạch Giá. Khuôn mặt đượm chút khắc khổ, thân hình cao lớn, anh Phong xin lỗi đã đường đột gặp tôi. Bên quán cà phê dì Năm trước cổng trường, câu chuyện anh khiến tôi hụt hẫng, bất ngờ. Anh Phong và Xuyến ở cùng quê. Cả hai đã quen nhau vài năm về trước, tình cảm tốt đẹp và họ đã đề cập tới hôn nhân. Chuẩn bị đám hỏi, thì gần đây Xuyến tỏ ra lơ là, có ý chối thoát. Và anh Phong biết được Xuyến quen tôi trong một thời gian vừa qua. Anh không trách cứ gì, chỉ muốn biết tôi là ai, và có tình cảm thật sự gì với Xuyến... Tôi nhìn người đàn ông trước mặt như nhìn thấy chính tôi. Mỗi trái tim có lý lẽ riêng của nó, nhưng đều mù lòa như nhau! Nếu không, sẽ chẳng bao giờ là tình yêu thật sự? Rồi thì cho đến lúc nói lời chia tay, tôi và Phong chỉ ngồi im lặng, không nói gì thêm. Cái bắt tay chắc nịch của anh, tôi hiểu thêm, đây mới là duyên phận, hạnh phúc của Xuyến. Bàn tay này sẽ bảo bọc, nâng niu đời nàng trong những mai này. Không phải là tôi. Nhìn chiếc bóng cao lớn của anh rời khỏi quán, tôi chợt thấy lòng mình là cả bao nỗi chia xa.
 
Trong những ngày sau đó, tôi đã không gặp Xuyến nữa. Mọi liên lạc thư tay, mọi tìm kiếm đến trường, tôi đều trốn tránh. Như không có, không hề xảy ra. Tôi dối người hay tự dối tôi? Cuộc sống với bao hệ lụy vây quanh, như cuốn hút, xô đẩy mọi số phận nhỏ nhoi của chúng ta. Lá thư cuối của Xuyến thật ngắn, mong được gặp tôi như lần sau cùng. Và tôi cũng không còn đủ lý do để từ chối. Buổi chiều bến phà nhỏ Tắc Ráng vẫn vội vã, vẫn tấp nập người. Tôi ngồi khuất  trong một quán nước lụp xụp, hướng về phía bến sông. Khuất chỉ đủ tôi nhìn thấy Xuyến đứng bơ vơ giữa dòng người xuôi ngược. Để nhìn thấy bao lần đôi môi Xuyến cắn chặc và ánh mắt vô vọng, đợi chờ. Chiều nay trên bến sông, tôi đã giữ đúng lời hẹn sau cùng. Với em và với chính tôi.

Gió từ bờ sông nhè nhẹ, hanh hanh hơi nước thổi. Tôi phải nhiều lần cầm lòng, chỉ cố gắng thu hết hình ảnh của Xuyến vào thương nhớ của mình. Chiều chìm dần và cơn mưa cũng chợt đến. Cơn mưa chiều bất chợt, trút nước lên bóng dáng người con gái trên bến nước. Xuyến vẫn đứng đợi, dưới cơn mưa, nhiều lần đưa tay vuốt mặt. Bàn tay đó, bờ môi đó nồng nàn, mãnh liệt. Rồi em sẽ quên tôi, theo thời gian trôi một dòng không trở lại. Rồi tôi sẽ đâu đó bên đời, luôn nhớ dáng hình người con gái bên sông, chiều mưa thương tưởng.Tất cả như một giấc mơ, một giấc mơ có thật. Tình yêu thật sự có được không phải nhốt trong tay, mà buông thả theo đường bay vời vợi của số phận? Và chừng như mỗi số phận con người luôn hiện diện quanh đây,  như bao giọt mưa chợt lăn nhẹ xuống bờ môi tôi thấm mặn…

Chuyến phà nhỏ cuối cùng cũng đưa người con gái tôi thương về phía doi Gòn. Bên kia sông, mưa vẫn bay bay nghiêng che dáng hình người con gái xa dần. Dòng sông buổi chiều mưa lạnh, buồn và mênh mông...  

“Tôi đứng bên này sông,
trời mưa bên kia sông, mắt vương lệ nhòa
vòng tay kín đan thầm dìu nỗi xót xa
Tôi vẫn thương và nhớ
dù mai quên trong tôi, dáng xưa yêu kiều
tình xa vắng cho dài ngày tháng cô liêu..!"   (*)
 
Durham, North Carolina
Nguyễn Vĩnh Long
(*) Mưa Bên Kia Sông - Nguyễn Thiện Lý
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.