Hôm nay,  

Mơ Khúc 40 Năm Của Trần Bát Nhã

10/02/202016:31:00(Xem: 5396)

MƠ KHÚC 40 NĂM CỦA TRẦN BÁT NHÃ

 

 

Lê Giang Trần

  blank

 
“Thơ… Khốn nạn, tôi, và tất cả tụi làm thơ chúng tôi, chạy không nổi khỏi nó. Nó là cái nghiệp, là sự chìm đắm vừa đau đớn vừa êm đềm, một thống khoái khó hiểu, đối với nhiều người, không trừ chính kẻ làm thơ…”

DU TỬ LÊ

 

*

 

Dạ thưa lòng vẫn ngậm ngùi

Mỗi khi nhớ lại cuộc đời của ta

Dầu mang quốc tịch Cờ Hoa

Căn cước tị nạn vẫn là lưu vong.

 

Đó là 4 câu thơ kết bài thơ Lưu Vong, bài thơ đầu trong thi tập MƠ KHÚC 40 NĂM của nhà thơ Trần Bát Nhã, cho thấy nỗi niềm ông cưu mang vằng vặc và ray rứt mà không riêng ông, người Việt Nam tị nạn sống khắp nơi trên thế giới, tâm trạng lưu vong là một nỗi sầu sâu kín hoen rỉ trong tâm thức của những ai sống biệt xứ mà vẫn còn tấm lòng nhớ thương quê hương nước Việt. Đặc biệt hơn, đối với những quân nhân miền Nam VN Tự Do sau khi tàn cuộc chiến, đã phải trải qua những năm tháng tù đày trong trại tù của Cộng Sản VN, đi tù với tên gọi là “học tập cải tạo”; những tù nhân này sau khi may mắn còn sống sót ra tù, vượt biên, hoặc về sau được nước Mỹ nhận cho định cư theo diện HO, vẫn không thể quên được niềm đau tủi nhục này. Với Trần Bát Nhã, ông có một giải pháp, LÀM THƠ:

 

Làm thơ như tập phóng sanh

Thả chim về cành thả cá về sông

Thả đau thương chốn bụi hồng

Thả mê ra ngộ thả thân bọt bèo

(TẬP LÀM THƠ)

 

Cuộc đời như giấc mơ trải dài 40 năm của tác giả, được ông ghi lại những hồi niệm nổi cợm, những ưu tư cuộc sống bấp bênh nơi xứ người, những trăn trở tình yêu từ tuổi học trò thơ mộng nhẫn đến nghiệt ngã ly biệt bao người đàn bà đến trong đời, những hồn nhiên đẹp tuổi xanh nơi ruộng vườn, những thảm kịch chiến tranh, những kinh hoàng thời gian tù đày trong trại cải tạo, những góc nhìn Sài Gòn thay đổi ngày nay, những thảm cảnh đời sống dân nghèo dưới chế độ cộng sản, những tư duy thuộc về tâm linh v.v… 40 năm đau đáu ấy, người chiến sĩ tràn trề sinh lực ngày xưa, nay cảm thấy mình giống như con ngựa già, như bóng tà dương, hãy đọc vài dòng thơ xuôi ông ví von:

 

Ngựa biết mình già, bốn vó không còn kham nổi những tung hoành thuở trước…

Bước soải chân trên đồi cỏ, như con ngựa kiểng chỉ đủ sức mua vui cho ngày tháng nhạt, thừa.

Nắng nung lòng Ngựa

Trong Tim còn có Lửa

Ngựa cuồng điên nhớ lại Hè nào…

Đêm đã qua, và một bình minh khác sắp nên thành.

Ngựa yên vui sống chung với bầy cho tới ngày hóa kiếp.

Những con ngựa. Một thời, một đất, một trời. Tên gọi Việt Nam.

[CON NGỰA GIÀ, BÓNG TÀ DƯƠNG]

 

blank

Người tị nạn mới định cư trên xứ người thường thường thuê nhà nơi xóm nghèo nhưng có đông người đồng hương đồng cảnh ngộ, để cảm thấy đồng hội đồng thuyền, một chút chòm xóm cùng chủng tộc cho âm lòng xa xứ.

 

Xin làm ơn khép hờ cánh cửa

Tôi cần một chút không khí bên ngoài, thông thoáng

Tôi cần chia sẻ mùi nấu nướng, mùi bếp buổi hoàng hôn

Tôi cần nghe tiếng nhạc đêm của những người hàng xóm

Đồng bào đồng hương đồng hội đồng thuyền

Đồng cảnh ngộ

Tiếng ca hát sẽ giúp tôi

tìm trong đống tro tàn kỷ niệm

những vết thương nhức nhối không cùng

 

Đây là chung cư bầy hầy của đám dân tị nạn

Tiền nào của nấy, giá bình dân

[CỬA SỔ]

 

Nhưng chủ đề tập thơ này có ý tập trung vào phạm trù TÌNH YÊU, điều mà ông thầm hỏi, ngầm hiểu, nhưng vẫn mong có câu trả lời:

 

Xin trả lời tôi hỏi một câu

Đất trời xưa cũ biết bao lâu

Tình yêu đâu phải điều mê hoặc

Mà khiến nhân gian chịu khổ sầu.

(CHỮ TÌNH)

 

Năm nay nếu thi rớt

Nàng sẽ lấy chồng. Tôi đi lính

Cả hai cùng rời con hẻm nhỏ

Nơi âm thanh cuồng nộ

Nơi hai đứa cùng lớn lên từng ngày

[UYỂN XƯA]

 

MƠ KHÚC 40 NĂM được chọn làm tựa thi tập, là bài thơ dài theo thể tự do, bài thơ cuối cùng khép lại tập thơ, được hồi niệm từ năm 1978 đến 2018. Anh quân nhân đi tù cải tạo được 3 năm thì:

 

1978

Em đã bỏ tôi đi

Mang theo thằng con trai ba tuổi

Cuộc chiến tàn

Nó vừa tròn một tháng

Ngày con chào đời

Tôi sa vào tay giặc

nên chưa lần nào gặp mặt con

...

 

10 năm sau chàng lính ra tù, về nhà thì căn nhà đã của chủ mới… anh nộp hồ sơ HO chờ đi Mỹ, bừng lên những hy vọng.

 

xách dao chém hồn ma quá khứ

ám ảnh đời tôi

Chiến tranh, ly biệt, tù đày

Tôi nhìn trời, kiêu hãnh

gồng mình lên gân

 

1998 anh HO đã ở Mỹ. Do khi ra tù về xóm nhà hỏi thăm, người ta nói rằng có rất nhiều người vợ tù mang con vượt biển. Anh hy vọng sẽ tìm gặp vợ con bên xứ người. Trong khi chờ đợi phép lạ xảy ra, cuộc đời anh trải qua đôi ba người đàn bà, tiếc là chỉ đi đến đổ vỡ. Anh HO thu mình sống lặng lẽ tịch mịch. 2018, bỗng qua một tiết mục quảng cáo trong đĩa DVD phim bộ VN anh mướn xem, người vợ của anh biến mất năm 1978 nay xuất hiện là một doanh gia giàu có và thành công ở Sài Gòn. Thế là anh tìm về quê hương để mong gặp gỡ xem sao. Tiếc thay, không phải là một kết cuộc có hậu của phim bộ. Và có thể chính nỗi đau thương cay đắng này là nguyên ủy khiến nhà thơ làm thành MƠ KHÚC 40 NĂM.

 

Không phải bỗng dưng nhà thơ chọn hai chữ BÁT NHÃ làm tên bút hiệu. Đó là một mật ngữ huyền diệu của nhà Phật và được dùng đặt tên cho bộ Kinh 8000 câu. Thi sĩ đã đưa ra vài bài thơ về Phật đạo trong thi tập này, như vậy ông đã hiểu lý Vô Thường và Tứ Khổ Đế. Ái dục là một nguyên nhân mãnh liệt nhất tạo ra khổ, trong đó, sân, si là hậu quả của tham ái.

 

Mây mưa tàn cuộc, bước ra

Tim nghe nhịp gõ trầm kha cuối đời

Thân còn mê mải rong chơi

Xác như đóm lửa tàn rơi ngoài đường

[HÀNH TRÌNH]

 

Chiến mã theo thời gian đã ngựa già. Chiến sĩ qua bờ nay HO. Quy luật thời gian không chừa một sinh linh nào, kiếp nhân sinh thì sinh lão bệnh tử, nhịp điệu 4 mùa xuân hạ thu đông cứ tuần hoàn. Ở tuổi thiền, tâm tĩnh, đôi khi cũng mỉm cười nhớ lại một thời nhiệt cuồng sinh lực, thơ mộng trái tim... Xin kết bài giới thiệu này bằng 4 câu thơ sau của bài KHÔNG ĐỀ 9, mà có thể nhà thơ Trần Bát Nhã muốn nói lên cái tâm trạng như thế:

 

Kiếm khách giang hồ xin tuyệt tích

Thân thế từ nay áng mây trôi

Viễn ly hát khúc anh hùng tận

Vạn lý cô thân bất khứ hồi

 

Lê giang trần

(Little Saigon, 29 tháng 12, 2019)

 

 

MUA TẬP THƠ XIN LIÊN LẠC TÁC GIẢ:

EMAIL: [email protected]

Tel: 504-460-7618

 

 



 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong trang đầu tiên của Thuyền, tiểu thuyết, tác giả Nguyễn Đức Tùng viết:“Cả Sài Gòn, cả nước, xem bói. Thời trước, người ta xem để hỏi ngày lành tháng tốt, tiền tài, hạnh phúc lứa đôi, nhưng năm ấy, mọi người hỏi: có đi được không?” Đi hay ở, đó là vấn đề. Chả là vào thời đó, “Nếu cái cột đèn biết đi thì cũng phải đi.” Nhận xét đơn giản này, không rõ do ai thốt lên, đã lập tức trở thành phát ngôn thời danh, mô tả khá hình tượng cho một chương bi thảm trong lịch sử dân tộc, nối tiếp ngay sau một chương bi thảm khác là chiến tranh. Chương đó bắt đầu từ trong bối cảnh “Ngày tôi ngoài hai mươi tuổi, đó là những năm tháng u ám nhất của đời người, đó là những ngày yêu đương tràn ngập, mặt trời lên mỗi sáng, chiếu rọi mặt đất. Nhìn đâu cũng thấy tương lai. Đó là những ngày buồn bã, đói, thất vọng. Chúng tôi có tất cả, chúng tôi không có gì. Đó là những ngày kỳ lạ khi chiến tranh chấm dứt mà không chấm dứt, hòa bình lo âu.”
New Book Release: This book is a translation of a collection of personal, literary, and journalistic vignettes of Vietnamese individuals who have made notable contributions to literature, art, and science. It is a rich source of information on the social, cultural, and political history of South Vietnam, as well as the individual careers of its human subjects...
Làm thơ là một hành trình, với nhiều người, có khi rất là tình cờ bất chợt như làn gió mát buổi sớm chúng ta gặp mà không hề mong đợi. Thơ của chị Lê Phương Châu có phong cách như thế, khi thơ đọc như là những dòng chữ tình cờ, nơi đây chị có vẻ như không cố ý tìm chữ, tất cả chỉ là tự nhiên như ca dao. Trên từng dòng chữ, chị hiện ra như các hơi thở của tỉnh thức, để tự quán sát đời mình tan rã từng ngày, từng giờ, từng khoảnh khắc trong dòng sông vô thường. Và từ đó, thơ của chị khởi dậy trên các trang giấy.
Trong những năm gần đây, các thư viện công tại Hoa Kỳ – vốn từng là không gian yên tĩnh dành cho học tập và tra cứu – đã trở thành điểm nóng trong các cuộc tranh chấp văn hóa. Hàng ngàn cuốn sách bị yêu cầu cấm lưu hành, không phải bởi độc giả trực tiếp, mà từ các nhóm chính trị cánh hữu sử dụng mạng xã hội để vận động phản đối hàng loạt. Riêng năm học 2023–2024, PEN America ghi nhận tới 10.046 lượt cấm sách ở các trường công, ảnh hưởng tới 4.231 tựa sách và 2.662 tác giả; trong đó Florida và Iowa chiếm lần lượt 4.561 và 3.671 lượt cấm trong năm học. Gần một nửa trong số đó là sách viết bởi các tác giả LGBTQIA+ hoặc thuộc các cộng đồng chủng tộc thiểu số – những tiếng nói vốn đã bị thiệt thòi trong ngành xuất bản, nay tiếp tục bị đẩy ra ngoài bằng nhãn “không phù hợp.”
Cũng tâm thái ấy, tôi có được khi đọc Phòng Triển Lãm Mùa Đông của nhà văn Đặng Thơ Thơ, và sau đó là xoay sở cho lọt vào những con chữ mang đầy ý nghĩa bức phá hiện thực...
Nguyễn Hữu Liêm là một người đa dạng, không chỉ trong nghề nghiệp mưu sinh, mà cả trong những lĩnh vực cầm bút, lý luận. Ông là một người gây tranh cãi trong những nhận định về cộng đồng, và cả trong những bài viết về rất nhiều đề tài, như văn hoa, triết học, tôn giáo, chính trị. Dĩ nhiên, sôi nổi nhất là lĩnh vực chính trị. Nguyễn Hữu Liêm mưu sinh với nghề Luật sư, giảng dạy Triết. Những bài viết của ông bất kể gây tranh luận thế nào trong cộng đồng, vẫn là những đề tài cần được cộng đồng suy nghĩ nghiêm túc. Do vậy, từ một bàn viết lặng lẽ ở San Jose, Nguyễn Hữu Liêm trở thành người khơi dậy những cuộc tranh luận không chỉ ở hải ngoại, mà còn cả trong Việt Nam.
Đặng Thơ Thơ cùng thế hệ với ông bác, em ruột mẹ tôi, sống trong thời Việt Nam Cộng hòa và cũng như ông bác tôi, Thơ Thơ xa xứ cùng gia đình, người bác theo ngành y còn chị ngành giáo dục, viết văn, sáng lập trang Da Màu như cách để giữ gìn bản sắc và ngôn ngữ Việt. Xa quê mới nhớ nhà, rời nhau mới ngẩn ngơ căn nhà cắt rốn, sợ mất tiếng mất giọng, ngôn ngữ bay tro nên việc người Việt tha hương lập ra các trang Văn Hải Ngoại là cách đại đoàn kết khỏi cảnh nhớ nhà, đồng thời đấy cũng là sân chơi, thư viện lưu trữ bản thảo, để người trẻ muốn tìm tòi giai đoạn 20 năm miền Nam, muốn thử sức mà không cần phải trình bày thành tích đăng báo, in sách chung sách riêng đều có thể liên lạc.
Không ai ngờ nhà thơ này làm được các bài thơ kể chuyện về các Thiền sư Việt Nam trong thể thơ Đường luật, y hệt như khai mở lại một mạch nguồn thi ca sinh động. Những bài thơ của thầy, tinh luyện từng chữ, dịu dàng mang hơi thở Thiền Tông Việt Nam. Tôi đọc và kinh ngạc, như gặp lại một tri kỷ những năm rất xưa cũ, nhưng với một chân trời thi ca hoàn toàn mới. Nơi đó, riêng một mình Thầy Thích Chúc Hiền bước đi đơn độc, trong văn phong thanh thản, giữa những như dường gian nan trong từng chữ, từng ý đối, từng vần trau chuốt khó gieo, và trong từng âm vang Thiền ngữ. Tôi đọc và cảm nhận từng trang thơ đầy những tràn ngập hạnh phúc, hẳn nhiên là cho cả thi sĩ Thích Chúc Hiền và cho cả những độc giả khó tính như tôi. Từ thầy, tôi nhận ra rằng thơ Đường luật không hề cũ, chỉ là vì mình đã tránh né một lối đi rất khó khăn của thi ca.
THUYỀN là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống, dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác...
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.