Hôm nay,  

Đọc Lê Lạc Giao: Dòng Đời

23/08/202408:18:00(Xem: 6386)
blank

Đọc Lê Lạc Giao: Dòng Đời
 

Phan Tấn Hải 
 

Tôi đã đọc bản thảo “Dòng Đời” khá là chậm. Đôi khi tôi đọc lại môt số đoạn, một số trang. Khi đọc lại toàn văn bản thảo lần thứ nhì, tôi lấy giấy ra ghi chú về các nhân vật, các mốc thời gian, những chuyển biến khi các nhân vật dời đổi từ bên dòng sông này qua thị trấn miền núi kia. Tất cả như một cuốn phim về một quê nhà đang tìm hướng đi trong thời kỳ hậu thực dân Pháp, nơi lối rẽ của tranh chấp để con sông trở thành đôi bờ và rồi người lái đò (trong tiểu thuyết này là người có tên là ông Ba Đò) trở thành người hai mặt, bị buộc cung cấp tin cho cả hai lực lượng thuộc hai ý thức hệ khác nhau.
 

Những gì hiện ra trước mắt, trong tâm tưởng của một độc giả như tôi, là một quê nhà đầy nước mắt, khi truyện kể dọc theo, trải qua ba hay bốn thế hệ, những người dân trong một xã hội bi thảm của thời thực dân Pháp, rồi tới sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trên trang giấy là một quê nhà tôi rất mực yêu thương được nhà văn Lê Lạc Giao kể lại những góc nhìn từ một thanh niên cùng thế hệ với tôi: sinh trước ngày đất nước chia đôi, nhìn thấy bạn bè một phần “nhảy núi” theo phe bên kia, và một phần khác đã tình nguyện ra trận để giữ gìn tự do cho miền Nam.
  

Nhân vật chính là Hiểu, chàng trai sinh bên dòng sông Cái của Nha Trang. Thân mẫu của Hiểu là cô Chanh, người sống với nỗi buồn khi thấy chồng là ông Xuân có vợ nhỏ và rồi đưa vợ nhỏ từ chợ Nha Trang lên Pleiku sống luôn. Thế rồi, cô Chanh đã xuất gia, trở thành một bà ni già tại một ngôi chùa trên một ngọn núi vùng Nha Trang. Hiểu thỉnh thoảng thăm mẹ, và thắc mắc tại sao mẹ lại chịu vào tu ở ngôi chùa lưng núi, nơi vị trụ trì là người thân với những người “cách mạng” trong núi. Mẹ Hiểu là người chơn tu, là người thuần tu, không bận tâm chuyện chính trị, muốn dứt bỏ thật xa những chuyện lao xao dưới các phố chợ của vùng Nha Trang.
 

Truyện mở đầu bằng hình ảnh của Hiểu tại vùng Nam California, khi Hiểu vào một quán cà phê, nghe giọng nói của một cô tiếp viên và nhận ra, giọng nói Hà Nội sau 1975 và cô có lẽ là một du học sinh. Lúc đó, Hiểu đã sống hơn ba mươi năm tại Hoa Kỳ. Hiểu về nhà trong nỗi cô đơn, cầm đàn lên và bất chợt hát... Tác giả Lê Lạc Giao kể: “...Hiểu hát một khúc nhạc nhưng đến lần thứ hai anh mới nhận ra mình đàn và hát. Bài hát Một Dòng Sông Xa Nguồn của người nhạc sĩ đã chết trong Tết mậu thân 1968. Vừa nghĩ đến tác giả, Hiểu như nghe lại tiếng ho của ông trong những đêm dài trước tết Mậu Thân.  Hiểu hồi tưởng những trăn trở thời chiến tranh trong đó thế hệ của anh đắm chìm trong bao đêm dài không ngủ! Sự bế tắc tâm thức con người lúc bấy giờ, biểu hiện cụ thể qua sự phung phí tuổi trẻ cho một thời điểm đậm nét phi lý, hư vô. Để rồi sau cuộc chiến tranh, bóng tối quá khứ nhuộm đen quãng đời còn lại của những nạn nhân và chứng nhân cuộc chiến tranh.”
 

Rồi truyện mở ra với cả một bầu trời chuyển biến của quê nhà, trải rộng qua ba hay bốn thế hệ, có lẽ là một trăm năm, từ thời ông Tước (ông nội của Hiểu), tới ông Xuân (thân phụ của Hiểu), tới Hiểu khi đang dạy học bị Tổng động viên năm 1972 để trở thành quân nhân biệt phái cho ngành giáo dục ở Miền Tây. Hiểu chứng kiến cuộc nội chiến qua hình ảnh các nhân vật liên hệ trong gia đình và trong làng xóm. Ông Tước chứng kiến lính Tây càn quét làng xóm, đốt làng. Ông Tước và thế hệ của ông trở thành những người hỗ trợ cho Việt Minh trong cuộc kháng chiến, chống thực dân Pháp, và khi đất nước chia đôi đã ước mơ sống trong hòa bình. Ông Tước nhìn thấy một số học trò võ năm xưa của ông bị lôi kéo vào núi để tham gia cách mạng, chống lại nền hòa bình của chế độ Việt Nam Cộng Hòa tân lập. Ông Tước nhận ra ngay cả sự trụ trì Tâm Quảng của ngôi chùa Tứ Chánh gần nhà ông lại là người hoạt động bí mật cho bên kia. Ông Tước sắp xếp cho Xuân vào khu chợ Nha Trang để Xuân không bị lôi kéo “vào núi” hoạt động. Thế rồi, trong khi kinh doanh xây dựng trong thị trấn, Xuân có vợ bé là một cô thợ may trong chợ Nha Trang, rồi Xuân dẫn cô lên Pleiku ở, nơi Xuân kinh doanh thành công với nghề xây dựng. 
 

Dòng sông gần nhà cậu bé Hiểu là nơi ông Ba Đò, người lái đò bị buộc phải lấy tin cho cả phe quốc gia và phía Cộng quân, mà họ tự gọi là Cách mạng. Kết cục bi thảm là khi ông Ba Đò bị níu kéo căng thẳng, đã rút khẩu súng K-54 ông giấu dưới một viên gạch ra tự bắn vào đầu tự sát.
 

Hiểu lớn dần theo những cuốn sách cậu đọc, và những mối tình học trò nhạt nhòa. Nhưng phần chính của truyện là dòng chảy của lịch sử. Kể về ông Mười Sách hành nghề pháp sư, rồi nghi thức thầy pháp kỳ lạ, rồi phát nguyện từ bỏ nghề thầy pháp, những hình ảnh mơ hồ, khó hiểu của tín ngưỡng dân gian. Truyện cũng kể về những bi thảm, như trường hợp xã trưởng Thắng bị quân VC nửa đêm về làng, lôi ra xử bắn.
 

Và Lê Lạc Giao ghi lại: “Ông Tước quen biết Thắng từ những ngày phong trào chống Tây và triều đình Huế. Ông kính trọng Thắng vì ông ta là một trí thức yêu nước, và quyết định của Thắng từ bỏ Việt Minh về thành, ông Tước không đánh giá phản bội như đám người trên núi. Nhưng ông Tước cũng không để đám người cách mạng lưu ý cách suy nghĩ ông. Đến hôm nay vì con trai, ông biết mình bắt đầu một cuộc đương đầu trong bóng tối với những kẻ ông tạm gọi là đồng chí một thời của mình.”
 

Trải rộng trong truyện dài của Lê Lạc Giao là các bạn của Hiểu, những người cùng thế hệ và các thiếu nữ quen thời đi học, từ Nha Trang tới Sài Gòn. Nơi đây là những hình ảnh gần nhất mà tôi cảm nhận, vì họ là những người trong thế hệ của tôi.
 

Như người bạn của Hiểu, say mê làm thơ, từ Miền Trung vào Sài Gòn học đại học, và quen với Hiểu ở Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Lê Lạc Giao ghi nhận: “Ngạc học Triết nhưng chuyên làm thơ và  điên cuồng mê thơ. Ngạc bảo có thơ thỉnh thoảng đăng trên tạp chí Văn học Sài gòn. Ngạc tỏ ra sành điệu ăn nhậu và hôm ấy uống đến ba chai bia 33 trong khi Hiểu hai chai đã thấy choáng váng muốn về…”
 

Nhưng tâm hồn thơ mộng của Hiểu đã có từ thời đi học bên các thôn ven bờ sông Cái. Và cậu học trò vương vấn hình ảnh về mái tóc của chị Chiêu, như tác giả kể: “Lần về mùa hè năm Hiểu học đệ ngũ, Chị Chiêu đi chợ ghé cửa hàng mẹ Chanh, và gặp đứa trẻ từ bé đã biết say mê một mái tóc thề mà về sau trưởng thành, Hiểu cho là biểu tượng quê nhà của một kẻ đi hoang, hay lạc loài ngóng vọng về những khi cô đơn nhất.”


 

Tuy nhiên, chị Chiêu học hơn Hiểu vài lớp, trong khi mối tình học trò đầu tiên của Hiểu là Nhạn. Tác giả ghi nhận: “Hiểu đến trước mặt Nhạn đặt tay  lên vai cô thật lâu. Nhạn im lặng, vai run lên và Hiểu lần đầu tiên nghe mùi tóc của Nhạn thật nồng và thơm. Hai người đạp xe về nhà. Đêm hôm ấy trước khi ngủ, Hiểu tự hỏi sao tóc của Nhạn có mùi thơm nồng nàn quyến rũ như thế!  Rồi thái độ của mình thế nào khi đặt tay lên vai của Nhạn? Mình muốn ôm Nhạn nhưng không dám. Mình mười sáu tuổi rồi, mình ở vào tuổi đàn ông khi đọc bao nhiêu sách nhắc nhở như thế.”
 

Một người tình học trò khác nữa của Hiểu là Cẩm, và nàng đã được ba mẹ đưa đi du học ở Đức quốc. Kể như là biệt xứ, nhưng hình ảnh lãng mạn của Cẩm thật khó quên. Lê Lạc Giao ghi lại hình ảnh của Hiểu khi lang thang đường phố Sài Gòn và nhớ Cẩm: “Hút đến điếu thuốc thứ ba Hiểu ra khỏi Pagode lang thang trên đường phố Lê Lợi. Anh vào hàng sách cũ, ngồi xuống lục lọi đống sách báo bày trên lề nhớ lại những ngày đi học. Sinh hoạt ồn ào nhộn nhịp của Sài gòn cho Hiểu thấy mình ngày càng xa xôi cái ốc đảo hạnh phúc, và có lẽ vĩnh viễn không bao giờ có lại được niềm an vui từ mối tình với Cẩm, hay những tháng ngày êm ả trong giảng đường đại học. Hiểu đứng lên lang thang qua các quầy sách cũ bìa vàng ố màu như tàn tích của một thời quá vãng mà anh từng cho là “nỗi buồn đau hạnh phúc” mỗi một khi cảm thấy cô đơn. Hiện giờ anh đang cô đơn khi đi qua quán cơm Thanh Bạch, rạp chiếu phim Vĩnh Lợi nơi từng in dấu hai người yêu nhau.”
 

Hay là hình ảnh bất chợt của một chiều mưa Sài Gòn: “Nhìn theo bộ váy ngắn trắng tinh và dáng vẻ cô gái tuổi học trò đệ nhất cấp, Hiểu nhớ đến cơn mưa bất chợt trên đường Nguyễn Thiện Thuật lúc ấy Hiểu mười bảy tuối và một cô bé nữ sinh mười lăm tuổi trú mưa dưới mái hiên của tiệm đàn Đức Thắng.”
 

Và hình ảnh nàng Hải Lan trong tim Hiểu. Lê Lạc Giao ghi lại: “Hải Lan nhỏ hơn Hiểu hai tuổi, đang học năm thứ hai Luật khoa, là sinh viên xa nhà ở trọ trên đường Nguyễn Trãi. Cha Hải Lan làm thư ký tòa hành chánh tỉnh. Là con gái duy nhất, cô muốn trở về quê nhà làm công chức như cha và đang chờ thi khóa phó đốc sự hành chánh. Hải Lan cho biết nhà hàng Thanh Đình của một người bạn cha cô, bất kỳ khi nào rảnh cô đều có thể đến làm việc kiếm thêm tiền. Hải Lan có thể ngồi thu tiền hay làm tiếp viên tùy nhu cầu của nhà hàng. Khi biết Hiểu đang là sinh viên sĩ quan đi chiến dịch nhưng vốn là một sinh viên văn khoa xa nhà trọ học như cô, Hải Lan vui vẻ như hai người quen nhau đã lâu.”
 

Tiểu thuyết “Dòng Đời” của Lê Lạc Giao là một cuốn phim nhiều góc cạnh. Không thuần túy là truyện kể về ba thế hệ trong dòng lịch sử quê nhà, nhưng cũng là những ký ức đau đớn và thơ mộng của Hiểu, một chàng trai không bao giờ già, người trải qua những ngày trưởng thành nơi thôn Bạch Hoa, nơi bàu Gáo, bên Cầu Đá, bên dòng Sông Cái, ngôi chùa Tứ Chánh… rồi tới Pleiku, Sài Gòn, Miền Tây và rồi xa rời quê nhà.
 

Ngòi bút Lê Lạc Giao trong tiểu thuyết này có vẻ như là một nhân chứng, nhưng chúng ta không nên hiểu chữ này theo một nghĩa pháp lý, bởi vì những dòng chữ trên giấy đã trở thành những dòng sông chữ nghĩa đang cuộn sóng ký ức, nơi đó đã cuốn trôi những ngày thơ mộng của các nhân vật, đã vùi dập ước mơ hòa bình của ba thế hệ, đã xóa nhòa những mối tình học trò rất ngờ nghệch và khó quên.
 

Tôi không muốn nói rằng tiểu thuyết này là hư cấu hay sự thật lịch sử của tác giả. Bởi vì sẽ rất nhiều độc giả tự nhìn thấy mình và người thân của mình trong tiểu thuyết này. Có thể thân phụ của bạn đã từng gia nhập Việt Minh thời chống Pháp, và rồi trở thành những người bảo vệ hòa bình cho các chính phủ Miền Nam. Có thể bạn đã từng học ở Sài Gòn, nơi bạn từng đi uống cà phê ở quán Hân, quán Bình Minh, ăn tiệm Thanh Đình, và những nơi tương tự như hình ảnh trong truyện. Có thể bạn cũng từng rụt rè nắm tay bạn gái  thời trung học và rồi nàng chợt biến mất… Có thể ngay trong gia đình bạn cũng có những người thân đứng nơi hai chiến tuyến. Cả một khung trời ký ức hiện ra trong tâm tôi, theo từng trang giấy của Lê Lạc Giao. Có lúc, tôi chợt muốn dịch ra tiếng Anh cho thế hệ trẻ đọc. Nhưng rồi tự thấy mình không kham nổi. Bởi vì, ngay khi viết bằng tiếng Việt, tôi cũng không viết được như Lê Lạc Giao, và rồi như thế sẽ là lạc điệu, nếu ra sức dịch sang tiếng Anh.
 

Tiểu thuyết “Dòng Đời” mang nhiều sức quyến rũ nhất trước giờ trong văn Lê Lạc Giao. Tôi đọc và tự thấy mình chìm vào, tắm gội trong chữ và trôi nổi trên các trang giấy. Tôi nghĩ rằng những dòng chữ trên các trang sách này là nước mắt của thế hệ chúng tôi, những người sinh ra ở Miền Nam vài năm trước khi đất nước chia đôi, và do vậy bị cuốn vào một cuộc chiến mà cha anh mình đã từng tham gia trong một hình thức nào đó, bên này hay bên kia, và rồi, thế hệ chúng tôi lên đường trong các đợt tổng động viên 1972 và 1973.
  

Lê Lạc Giao đã viết lên một cuốn tiểu thuyết xuất sắc, đẹp rực rỡ, và cũng rất buồn, như một hình ảnh ghi trong truyện: “Có kẻ ra đi rồi trở về nhưng cũng có kẻ ra đi mãi mãi. Những dấu chân trên cánh đồng mênh mông ấy hằn sâu trong lòng Hiểu, cũng như bạn bè anh bao vết thương không bao giờ lành nỗi. Tuổi trẻ thời chiến tranh làm thế nào thực sự bình yên khi mà chia lìa luôn luôn đến trước những ước mơ!
 

Thế rồi nhiều người trong thế hệ chúng tôi may mắn thoát chết. Để nhiều thập niên sau, thấy lại một quê nhà hỗn loạn và yêu thương trên các trang tiểu thuyết Lê Lạc Giao. Một khung trời đau đớn và yêu thương của một thế hệ rất buồn. Nơi đó, một thời tôi đã trưởng thành từ các góc phố ngập nắng vàng, một thời đã ngồi học trong các lớp ê a bên những rặng tre, đã lang thang trên các hè phố thời sinh viên và tự thấy mình như các nhà thơ ưa nổi loạn của chủ nghĩa hiện sinh. Và là một thời thương nhớ bên một tà áo lụa giữa nắng Sài Gòn và giữa những dòng thơ viết dở dang.

---- California, tháng 7/2024.

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.