Hôm nay,  

Làm Thơ Chung Để Chữa Lành

24/07/202000:00:00(Xem: 3367)

Lam Tho chung de chua lanh 01

Làm thơ, lặng lẽ trước trang giấy.

 
Một nhà thơ khi sáng tác, thường là từ cảm xúc riêng. Có khi ngồi lặng lẽ nửa khuya, có khi lặng lẽ nhìn ra suối hay góc rừng, và có khi chợt thức dậy lúc rạng sáng và nhớ tới một vấn đề… Làm thơ là ngồi một mình với chữ nghĩa, đối diện trang giấy trắng và nhìn vào tâm hồn mình. Trên nguyên tắc, không ai làm thơ với “hai mình” hay nhiều người. Tuy nhiên, có một thể loại thơ cần nhiều người chung tay sáng tác. Các bài thơ này được gọi là “community poems” (thơ cộng đồng) hay “group poems” (thơ nhóm) do nhiều nhà thơ cùng sáng tác. Chủ đề sẽ được chọn, thường là từ các cảm xúc được chia sẻ trong xã hội. Và làm thơ chung vì một tập thể nhiều nhà thơ có cùng một cảm xúc, và muốn nói cùng một tiếng nói để chữa làm các vết thương trong xã hội. Đặc biệt, thể loại thơ làm chung còn dùng như một phương pháp dùng văn học trị liệu cho một số bệnh nhân trầm cảm. Nhìn về khía cạnh chính trị, làm thơ chung có thể xem như một thỉnh nguyện thư ký tên nhiều nhà thơ để gửi cho cuộc đời.

Có nhiều phương pháp làm thơ chung, nhưng một cách tổng quát, có thể giải thích về cách sáng tác một bài thơ chung. Thí dụ, một nhóm nhà thơ tụ họp, ngồi thành hình tròn, chọn ra một chủ đề tổng quát cho bài thơ sẽ sáng tác chung. Chủ đề bài thơ có thể là một vấn đề xã hội cả nhóm cùng quan tâm, hay là một cảm xúc mà cả nhóm thi sĩ dễ dàng chia sẻ. Người điều hợp sẽ gợi ý các nhà thơ tham dự bằng cách đọc cho mọi người nghe một bài thơ có sẵn trong quá khứ từ một nhà thơ nào đó có cùng chủ đề (thí dụ, các nhà thơ lưu vong tại Quận Cam muốn làm bài một thơ chung về hoàn cảnh hoang mang, có thể đọc bài thơ gợi ý từ cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương nhan đề “Phương Xa” với các dòng cảm xúc tương tự như: Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỉ / Một đôi người u uất nỗi chơ vơ / Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị / Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.). Sau đó, các nhà thơ trong vòng tròn được mời mỗi người làm một bài thơ độc lập cho chủ đề chung đó, thời lượng khoảng 10 hay 15 phút. Người điều hợp yêu cầu các thi sĩ (đang ngồi vòng tròn) hãy chuyển bài thơ mỗi người mới viết đó sang người bên cạnh. Rồi mỗi người từ bài thơ được chuyền sang đọc, sẽ viết ra vài dòng thơ mình thích từ bài thơ của bạn bên cạnh. Mỗi người đọc lớn bài thơ bạn bên cạnh, rồi đọc những câu thơ ưa thích đã chọn và viết các dòng ưa thích này lên một tấm bảng hay trên một tờ giấy rời. Sau đó, sắp xếp các dòng thơ được chọn để làm thành một bài thơ chung, gọi là thơ cộng đồng, hay thơ nhóm.

Cách làm thơ tập thể này là một cách để khuyến khích mọi người lắng nghe nhau, để hiểu những kinh nghiệm và cảm xúc của bạn thơ trong nhóm qua thơ, để xóa những ngăn cách và rào cản có thể có giữa những người làm thơ. Nhưng không nhất thiết là các thi sĩ phải ngồi chung thành hình vòng tròn; họ có thể từ nhiều tiểu bang gửi bài thơ do họ sáng tác tới người điều hợp sau khi được cho biết chủ đề bài thơ đang kêu gọi góp thơ làm chung. Một vài tạp chí truyền thông Hoa Kỳ, như NPR (National Public Radio) thỉnh thoảng chọn đề tài làm thơ cộng đồng về các quan tâm xã hội, như người da đen dễ bị cảnh sát bắt hay bắn chết hơn so với da trắng, bất kể nhiều trường hợp vô tội và không vũ khí. Các thi sĩ tham dự cho NPR trong các bài thơ này có thể tới vài chục hay cả trăm người từ nhiều tiểu bang, và cả từ ngoài Hoa Kỳ gửi tới tham dự.

NGUYỆT NGA HỘI NGỘ THÚY KIỀU

Lấy một trường hợp cho dễ hiểu. Giả sử như có một cuộc hội ngộ của ba nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm. Và ba cụ muốn có một bài thơ chung. Như thế, chúng ta chọn ra ba tác phẩm Lục Vân Tiên (của cụ Nguyễn Đình Chiểu), Truyện Kiều (của Nguyễn Du), và Chinh Phụ Ngâm (thơ Hán văn của Đặng Trần Côn, nơi đây sử dụng bản Việt dịch tương truyền của Đoàn Thị Điểm). Chúng ta chọn 2 câu lục bát từ ba tác phẩm trên, theo thứ tự ghép lại thành một bài thơ 6 dòng lục bát. Hai câu đầu là từ Lục Vân Tiên, 2 câu giữa là Truyền Kiều, và 2 câu cuối là Chinh Phụ Ngâm. Bài thơ mới dự kiến sẽ có 6 dòng, như sau:

Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than,
Năm canh luỵ ngọc xốn xang lòng vàng.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

Như thế, bài thơ trên có chủ đề về cô Nguyệt Nga. Nếu người điều hợp khác, có thể sẽ chọn các câu khác, và chủ đề có thể là cô Kiều hay người chinh phụ, với cùng nỗi buồn nữ tính. Do vậy, chủ đề thơ chung thường thu hẹp vào vấn đề xã hội, có khi là thời sự trực tiếp, có khi là về nỗi buồn đại dịch khi xã hội phong tỏa và toàn dân cách ly, và tương tự. Ba nhà thơ trên (Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm), nếu kể thêm bản chữ Hán là bốn vị (thêm Đặng Trần Côn) không hề có vấn đề tâm lý gì, và nếu muốn, chỉ có thể nói rằng bốn nhà thơ có bệnh thương người, có lòng từ bi với thân phận phụ nữ thời ảnh hưởng Nho giáo. 

THƠ NHƯ GẮN KẾT CỘNG ĐỒNG

Một số bài thơ chung tại Hoa Kỳ có góp mặt của vài chục thi sĩ, có khi cả trăm thi sĩ. Báo eMissourian ngày 1 tháng 5/2020 có bản tin nói về bài thơ cộng đồng nhan đề “I Am From” (Tôi tới từ…). Bản tin ghi rằng cư dân tiểu bang Missouri hôm 1 tháng 4/2020 đã khởi động National Poetry Month (Tháng Thi Ca Toàn Quốc) bằng cách chia sẻ 2 bài thơ cộng đồng. Có gần 100 người, tuổi nhỏ nhất là 9 tuổi và cao niên nhất là 84 tuổi, đã nộp bài thơ với chủ đề “home” (nhà, quê nhà), và ba nhà thơ địa phương (Maria Brady-Smith, Aimée Appell và Nathan Adam) sử dụng gần 100 bài thơ trên, trích mỗi bài 2 hay 3 câu và ghép lại thành 2 bài thơ cộng đồng. Một bài thơ là ghép từ trích thơ các nhà thơ người thành niên làm thành bài có nhan đề  “I Am From” (Tôi xuất thân từ) , và bài thơ khác là ghép từ các trẻ em để làm thành bài thơ “Home Is” (Nhà là).

Nhà thơ Brady-Smith nhận định, “Mỗi bài thơ gửi tới góp vào đều hay riêng. Nhưng trích ra và ghép thành 2 bài thơ này, để 2 bài thơ này thăng hoa vượt trên bất cứ những gì mà từng người chúng ta có thể sáng tạo riêng. Trong cách này, nó mô tả cái cốt tủy của cộng đồng chúng ta… Với giúp đỡ từ hơn 30 người thiện nguyện đọc lên – nhóm 30 người này cũng từ nhiều lứa tuổi – chúng ta để để lại cho National Poetry Month một cộng đồng giọng đọc các bài thơ. Chúng nhắc chúng ta một lần nữa rằng không tinh cờ mà các bài thơ này được sáng tạo ngay bây giờ. Chúng ta đang ở giữa một trận khẩn cấp quốc gia đòi hỏi cộng đồng chúng ta ra đứng bên nhau để cùng vượt thắng nỗi khó khăn chỉ xảy ra một lần trong đời mình này.”

Bạn có thể nghe đọc thơ thiếu niên, bài “Home Is” (Nhà là) ở đây: https://youtu.be/ULW3XDYRR-0
Sau đây, chúng ta dịch các dòng cuối cùng của bài thơ “I am from…” (Tôi tới từ):
.
Tôi tới từ kỷ niệm của rất là xa, rất xa xưa
trân quý trong trái tim và tâm trí của những ngày bây giờ là quá khứ
một nơi ẩn trú nơi đã luôn luôn chờ đợi tôi
  .
Tôi tới từ 5 thế hệ của tiếng cười và nước mắt
Trị giá 50 năm, nhiều hơn hay ít hơn…
Tôi luôn luôn đang về nhà.
(ngưng trích)

THƠ NHƯ PHÁP TRỊ LIỆU

Không chỉ tạo một cảm xúc cộng đồng, thơ nhóm còn dùng để trị liệu tâm lý. Tiến sĩ Perie Longo --- tác giả nhiều thi tập và bản thân từng được thành phố Santa Barbara bổ nhiệm làm Thi Khôi (Poet Laureate of Santa Barbara) các năm 2007-2009, bản thân có giấy hành nghề Thi Ca Trị Liệu (Registered Poetry Therapist) --- đã dùng thể loại thơ nhóm để chữa trị các bệnh nhân có vấn đề rối loạn tâm lý.


Bà Longo kể về một trường hợp dùng thể loại thơ cộng đồng để trị liệu cho một nhóm tại trung tâm chăm sóc Sanctuary Centers vào năm 2019. Trong cương vị người điều hợp và là người hướng dẫn trị liệu, thi sĩ Longo chọn chủ đề trong bài thơ nhan đề “Things I Didn’t Know I Loved” (Điều Tôi Không Biết Rằng Tôi Đã Yêu Thương) của cố thi sĩ Thổ Nhĩ Kỳ Nazim Hikmet (1902-1963), người nhiều lần bị tù vì quan điểm chính trị và cuối đời phải lưu vong. Một phần của bài thơ này, nơi đây dịch như sau (ghi nhận: nhà thơ này ngắt dòng bất định):

Tôi đã không biết rằng tôi đã ưa thích mưa
dù là mỏng như lưới bụi hay như đập dữ dội vào kính
tim tôi đưa tôi quấn vào lưới hay bị giam một giọt mưa
và bay lên tới các đất nước bất định mà tôi đã không biết tôi đã yêu thương
mưa nhưng vì sao tôi đột nhiên khám phá tất cả các đam mê này khi ngồi
bên cửa sổ trên chuyến xe lửa từ Prague tới Berlin.

Phần trích bài thơ này, dùng làm gợi ý, trao cho những thành viên trong nhóm thơ trị liệu. Hai người tình nguyện đọc lớn lên để tất cả trong nhóm đều nghe 2 lần, nhằm nhận ra từng chữ và từng nghĩa. Kế tiếp, nhóm này thảo luận, xem dòng thơ nào họ thích nhất, rồi thảo luận về nơi họ đã yêu thương, những người họ nhớ và những việc họ trước đó không nói nhưng ước mơ họ sẽ có. Việc thảo luận nhằm tập trung người trong nhóm chú tâm vào những gì họ [những người được trị liệu bằng thơ] sắp viết. Sau khi thảo luận, mỗi người ra một góc riêng để viết bài thơ riêng của từng người. Sau khoảng 10 phút, họ trở lại ngồi vòng tròn, từng người đọc thơ của họ, hoặc trọn bài hoặc những dòng họ thích. Sau đó, người điều hợp trích và ghép thành một bài thơ chung. Bài thơ “cộng đồng” này có nhan đề “I Never Knew I Loved…” (Tôi Chưa Bao Giờ Biết Rằng Tôi Đã Yêu Thương). Bài thơ này, trích dịch nơi đây như sau:
.
Tôi Chưa Bao Giờ Biết Rằng Tôi Đã Yêu Thương
Tôi đã không biết rằng tôi đã yêu thương nỗi đau đớn
cho tới khi tôi thấy các món quà cảm xúc từ đó
Tôi đã không biết rằng tôi đã yêu thương cuộc đời
cho tới khi tôi gần như mất chính đời tôi
Tôi đã không biết rằng tôi đã nhớ những cội cây
tại rừng Los Osos Pines…
Tôi đã không biết tôi đã nhớ mắt em
hay là cái nhìn nắng cháy trên khuôn mặt em
.
Tôi chưa bao giờ biết rằng tôi đã yêu thương tự do của tôi
cho tới khi nó biến mất
… (ngưng trích)

THƠ TRONG MÙA ĐẠI DỊCH

Trong thời đại dịch COVID-19, nước Mỹ y hệt như đột nhiên gặp một trận bão vi trùng tứ phía tràn tới, và nhiều tiểu bang dồn dập các bản tin về chết, về nhà xác hết chỡ chứa, về bệnh viện hết phòng ICU, về thiếu trang phục bảo hộ và về đủ thứ những chuyện bất hạnh chưa từng tiên đoán được. Các nhà thơ cùng một suy nghĩ chung, rằng thi ca làm được những gì trong thời đại dịch này? Một bài thơ cho đất nước Hoa Kỳ trong thời khủng hoảng?

Thông tấn NPR hôm 30/4/2020 đăng bài viết về bài thơ nhiều người chung tay sáng tác, nhan đề “Nếu Cây Có Thể Mãi Khiêu Vũ, Tôi Cũng Có Thể Như Thế,” và NPR gọi đây là “một bài thơ cộng đồng để đối phó khủng hoảng.”

Lam Tho chung de chua lanh 03

Khi những hàng cây khiêu vũ…


Phóng viên Rachel Martin ghi nhận rằng bài thơ này là sáng tác chung, từ 33 nhà thơ đang cư ngụ nhiều nơi khác nhau ở Mỹ, trong đó có một nhà thơ từ Phnom Penh (thủ đô Cam Bốt). NPR trích mỗi người vài dòng để ghép lại, thành bài thơ 82 dòng thơ. Duyên khởi là từ đầu tháng 4/2020, NPR đưa ra lời mời gọi góp thơ về đề tài mô tả cách bạn bị đại dịch coronavirus ảnh hưởng tới. Người điều hợp (sẽ trích thơ từ 33 thi sĩ gửi bài, để ghép thành bài thơ chung) là Kwame Alexander, người đang giữ chức thi sĩ nội trú (poet-in-residence) tại NPR.

Bài thơ gợi ý do Kwame Alexander đưa ra là của Nancy Cross Dunham có nhan đề "What I'm Learning About Grief" (Điều Tôi Đang Học Về Đau Đớn), và yêu cầu các dòng thơ (hay bài) gửi về khởi đầu với cùng các chữ đó. Sau đây là trích dịch từ bài thơ cộng đồng này (dấu chấm câu sẽ theo đúng bản tiếng Anh):
.
Nếu Cây Có Thể Mãi Khiêu Vũ, Tôi Cũng Có Thể Như Thế
Điều tôi đang học về đau đớn
là nó ngồi trong khoảng cách giữa các tiếng cười
tới trong bóng tối trộm hơi ấm từ tấm trải giường khâu giấc ngủ với những cọng dây leo mỏng
là một bài hát quen thuộc ám ảnh,
nhưng tôi không thể nhớ lời ca…
.
Điều tôi đang học về đau đớn
là nó lăn như lớp sương dày ẩn vào các nếp nhăn trên làn da
Tới thăm, rồi tới thăm nữa
Lãng vãng dưới ghế tôi ngồi
Và, khi tôi không quan sát
Thò ra các móng vuốt nhỏ của nàng
Và đập vào các cổ chân của tôi ---
Nỗi đau đớn rình chụp bạn
Bạn thấy chính bạn trên ghế với một giếng giận dữ sống trong một hố trong bao tử của bạn và nó không biến đi đâu.
.
Điều tôi đang học về đau đớn
là nó có thể tới như một tiếng thì thầm hay như một trận bão ầm vang như sấm sét
nó để lại một khoảng trống, để sẽ được lấp đầy với trồng cây mới
. (ngưng trích)

THƠ VÌ SINH MẠNG NGƯỜI DA ĐEN

Thông tấn NPR hôm 27/5/2020 đăng bài thơ nhan đề “Running For Your Life” (Chạy Để Khỏi Chết), và đó là một bài thơ cộng đồng cho một người da đen bị giết tên là Ahmaud Arbery. Phóng viên Rachel Martin nhắc rằng vào ngày 23/2/2020, người thanh niên da đen có tên Ahmaud Marquez Arbery, 25 tuổi, bị bắn chết ở gần thị trấn Brunswick, quận Glynn County, tiểu bang Georgia, trong khi chạy thể dục trên đường Holmes Road. Anh Arbery bị rượt theo, chận lại bởi 3 cư dân da trắng --- Travis McMichael và bố là Gregory (ông này mang súng và lái một xe bán tải), và William "Roddie" Bryan (ông này lái chiếc xe thứ nhì, tông ngay vào anh Arery giữa đường và quay video cảnh dí bắn). Arbery bị bắn chết, nhung cảnh sát và công tố không làm gì. Chỉ tới khi video lộ ra công chúng, và hình ảnh Arbery bị nhóm da trắng dí đuổi và bắn chết quá bi thảm gây dư luận nổi giận, cảnh sát mới bắt hai cha con McMichaels (ngày 7 tháng 5/2020) và bắt Bryan (ngày 21/5/2020). Tức là, cảnh sát và công tố im lặng suốt 74 ngày, rồi mới bắt cha con McMichaels. Hai tháng rưỡi im lặng đó có ý nghĩa gì?

Lam Tho chung de chua lanh 02

Chạy để thoát chết…

Trong các tuần lễ sau vụ Arbery bị bắn chết, xảy ra thêm mấy vụ cảnh sát bắn chết người da đen. Dreasjon "Sean" Reed bị bắn chết ở Indianapolis. Breonna Taylor, một nhân viên y tế cấp cứu tại Louisville, Ky., bị bắn 8 phát đạn trong khi còn nằm trên giường. Tại Minneapolis, môt người đàn ông da đen chết trong Ty cảnh sát, và cũng thị trấn này, George Floyd bị cảnh sát dùng đầu gối ấn vào cổ tới chết vì nghẹt thở. NPR mời gọi làm thơ chung, và nhận được góp thơ từ hơn 1,000 người, với chủ đề an toàn cho sinh mạng người da đen tại Hoa Kỳ hiện nay. Bài thơ chung này có nhan đề “Running For Your Life” (Chạy Để Khỏi Chết). Bài thơ trích dịch như sau:
.
Chạy Để Khỏi Chết
Không khí màu gì?
Ai có quyền được thở?
Vì sao chúng ta sợ lẫn nhau?
Khi nào họ sẽ tới lấy mạng những người da nâu mà tôi biết và yêu thương?
Tội của anh ta là gì?
.
Có công lý cho tất cả trên mảnh đất tự do này không?
Hay chỉ cho những người da
Trắng như tôi?
.
Thuốc chủng ngừa cho “đại dịch” này là gì?
Tôi thắc mắc con tôi nơi đâu?
.
Thêm
Một
Xác
Đen
Bị Bắn
… (ngưng trích)
.
Tới đây, có thể có một câu hỏi: có bao giờ có một bài “thơ chung” giữa Trump và Biden? Có lẽ không bao giờ. Câu hỏi khác: bao giờ sẽ có một bài “thơ chung” giữa các nhà thơ Hà Nội và các nhà thơ lưu vong? Vài thập niên nữa, may ra?

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.