Hôm nay,  

30 năm Việt Báo

05/09/202215:35:00(Xem: 6049)
Hinh tren
Hình 1. Tờ báo Việt Báo Kinh Tế Số 1 phát hành ngày 5 tháng 9, 1992.
2. Ban sáng lập Việt Báo và thân hữu trồng cây trước cửa tòa soạn Việt Báo
đầu tiên trên đường Moran, Westminster năm 1992. Từ trái: Đỗ Quý Toàn,
Nhã Ca, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Kiều Chinh, Huỳnh Mai, Nguyễn Dũng Tiến, Tài Nguyễn.
 


Đang ở Thụy Điển, đang buông để tuổi già thanh thản, bình yên như cảnh mặt trời lặn trên biển chiều.  Con gái Hòa Bình và thân hữu báo tin: Đến ngày 5 tháng 9, Việt Báo tròn 30 tuổi. Ngày 5 tháng 9, năm 1992 khai sinh của tờ báo. Chúng tôi bàng hoàng nhớ. Toa tầu ký ức, những toa tầu xình xịch chở nặng đi cùng với thời gian. Nặng lắm. Nặng tình nghĩa.

Xin đừng hỏi một người “Đã mất ngày tháng” như tôi, phải nhớ rõ chi tiết, tháng nào, ngày nào. Chỉ nhớ có trước, có sau.

Trước: Từ Lê Đình Điểu, bạn chúng tôi, đã bỏ nhiều công sức, thời giờ để hướng dẫn đi tới các cánh cửa công quyền giúp chúng tôi có được giấy phép ra báo. Bạn Điểu của chúng tôi ít nói, chỉ cười cười. Cười mà được việc. Từ hai cháu thân yêu Nhung Hiển, chia phòng, dọn patio rộng phía sau nhà để làm một tòa soạn nhỏ. Từ sự hỗ trợ của anh Nguyên Sa, nhà báo Hồ văn Đồng, nhạc sĩ Phạm Duy, anh chị Hoàng Văn Đức, anh Trương Quốc Hoa, anh chị Mai Kim Ngọc, hai em Tài-Mai, sự giúp đỡ chân tình của luật Sư Chistine Nga Vũ Đình, khi chúng tôi gặp rối rắm và hoàn tất giấy tờ cho chúng tôi được ở lại, làm báo. Từ chị Kiều Chinh, hàng ngày lái xe bao dặm đường đem về cho chúng tôi những quảng cáo mới. Lê Giang Trần đến với chúng tôi vào thời điểm đó, người em thi sĩ phụ trách Layout, rất mã. Và không thể nào quên anh Trần Huy Bích, người bạn, người anh, lúc nào gặp khó khăn là có anh bên cạnh.

Người anh lớn, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, một hôm bỏ San Jose, với một túi xách nhẹ hều, bước vào nhà: “Anh xuống đây làm báo, ở luôn với bọn em. Anh chỉ cần một chỗ ngủ.”

Người già thì ngủ được bao nhiêu. Viết bài tối khuya, sáng sớm cùng với cháu Hòa Bình đi bỏ báo trên chiếc xe cà rịch cà tàng. Hai bác cháu có biết bao kỷ niệm vui, buồn về nghề báo.

Ngày nào, tháng nào, không nhớ. Địa chỉ được dời tới đường Moran, khu báo chí, chỉ là một phòng nhỏ cùng ké với em Phạm Đắc Hiện, là vua stock thời đó. Hiện vui vẻ nhường cho kê một chiếc bàn để giao thiệp, gặp gỡ bạn văn và độc giả. Lúc này, Phạm Minh đã dựng được nhiều thùng báo để bán, một tờ lấy ra, bỏ vào 25 xu, nhưng đồng xu 25 thì ít, mà những miếng nắp ken cà bằng phẳng giả bỏ vào để lấy báo thì nhiều vô kể.

Chặng đường giữa còn biết bao khó khăn, vẫn được sự giúp đỡ của bạn hữu, của các thân hữu quảng cáo. Tòa soạn báo được dọn sang một khu nhà bên, lớn hơn, cạnh văn phòng nhỏ của Phạm Đắc Hiện. Việt Báo từ một tuần một số, rồi lên một tuần ba số, rồi một tuần bảy số. Lúc này, tòa soạn có thêm Viên Linh, anh Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh trở về lại San José, trấn thủ một chi nhánh Việt Báo. Có thêm sự hợp tác của anh Nguyễn Ngọc Ngạn, nhà in, cùng với những người bạn trẻ mới, Tân, Thắng. Lúc tòa soạn rời đường Moran, xuống Sullivan, có mặt chị Quyên Trần, lo về trị sự. Về kỹ thuật có thêm Khanh Nguyễn, Huy Nguyễn, chị Loan Nguyễn. Về online, có thêm Phạm Luyến… những đêm làm báo khuya có Nguyễn Hoàng Đoan đem các hủ mắm cà thịt kho Khánh Ly tiếp tế, những tô phở của Phở Tàu Bay Lý Thái Tổ, bánh trung thu Kiên Giang, thức ăn và cây xanh từ vườn cây Mimosa Nguyễn Dũng Tiến, vô số cácmón ăn ân tình… Chặng đường giữa này, chúng tôi còn có thêm được tờ Việt Báo Houston do Sông Văn và Như Băng điều hành, tờ Việt Báo Seattle, do Phú Bùi phụ trách, tờ Việt Báo San Diego, do gia đình nhà báo Nguyễn Khắc Nhân phụ trách, chúng tôi có thêm bạn hữu các địa phương. Chúng tôi có sự cộng tác bài vở của các anh Như Phong Lê văn Tiến, anh Lê Văn, bác sĩ Đặng Đức Nghiêm, nhạc sĩ Cung Tiến, nhà trồng lan Ngô Bảo, chị Bích Đào... Đặc biệt anh Doãn Quốc Sỹ, đã gần 90 tuổi, cùng với cô gái út Doãn Hương vẫn hằng ngày viết, dịch truyện cổ tích thế giới cho trang thiếu nhi. Tường Chinh, cô giáo Lan Phương Phạm, cùng hai con BảoNgọc, Quốc Nam, Julie QTran đã ghé vai với cô Nhã Ca, cùng lo trang báo cho con nít, Trương Ngọc Bảo Xuân, Trương Ngọc Anh, Mina Minh Hà, Lê Minh Hải, anh Vi Anh, anh Vũ Linh… và các bạn lo trang báo chuyên mục hàng tuần, rồi Thảo Trương, Tiffany Đoàn cùng Hằng Nguyễn lo trong lo ngoài ... Kể thì nhiều lắm, nhưng quên cũng nhiều, xin đừng giận một bà già trên 80 tuổi đã quên nhiều hơn nhớ.


Không thể quên những thân tình của các vị dành cho Việt Báo: Đức ông Trần văn Hoài, Hòa thượng Geshe la Tsultim Gyeltsen, H.E Zong Rinpoche la, các chư tăng và phái đoàn Tây Tạng từ Ấn Độ, Hòa thượng Thích Nhất Hạnh, Hòa thượng Thích Mãn Giác, Hòa thượng Thích Nhật Thiện, Hòa thượng Thích Tâm Châu, Hòa thượng Thích Như Điển, hòa thượng Thích Trí Chơn, giáo sư Tenzin Dorjee thường ghé thăm, cầu nguyện.

Sau: là tưởng nhớ những người anh đã ra đi: Anh Hồ Văn Đồng, anh Nguyên Sa, anh Nguyễn Sỹ Tế, anh Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Phí Ích Bành.

Và rồi, tiếp tục: nhiều thân hữu đến, rồi đi như Nguyễn Ngọc Minh, Ngân Nguyễn, Nguyễn Hiền phóng viên, Phụng Linh, Nguyễn Chí Khả, Phí Ích Bành, biên tập, anh Nguyễn Hữu Hiền, bảo trợ… dù ở hay đi, vẫn luôn là thân hữu, khi cần, vẫn đến với nhau. Nhà văn Thảo Trường, khi sang tới Mỹ, không rời bạn hữu cùng tờ báo. Không thể thiếu Nguyễn Xuân Nghĩa, báo ngày, báo Xuân, bất kể ngày đêm, mặc áo giáp chủ biên báo xuân Việt Báo chăm sóc tờ báo xuân trong nhiều năm, với các bạn góp bài văn nghệ và thơ xuân hàng năm như Du Tử Lê, Nguyễn Quốc Thái, Nguyễn Lương Vỵ, Quỳnh Giao... Bà Trùng Quang với giải thưởng Trùng Quang của Viết Về Nước Mỹ. “Giải Thưởng Viết Về Nước Mỹ” hằng năm, những tác giả đoạt giải, những người viết, đã gắn bó với giải thưởng, với tòa soạn. Nhóm thân hữu Việt Bút, đã luôn luôn chia xẻ ngọt bùi, góp sức, họp mặt mỗi lần phát giải. Nhóm NTM, đầu tàu là Thân Nguyễn và Bích Liên, luôn sát cánh và hỗ trợ Việt Báo trong các chương trình. Một người mà chúng tôi rất biết ơn, anh TP, ở San Diego, không bao giờ muốn được nhắc, đã âm thầm giúp đỡ giải thưởng VVNM hằng năm. Luật sư Nguyễn Hoàng Dũng và Thụy Trinh, là MC trường kỳ trong các buổi phát giải thường niên, anh Nguyễn Hoàng Linh vẫn hàng năm với Xe Đò Hoàng đưa các tác giả từ bắc xuống nam... Ngoài các chủ khảo kỳ cựu như anh Giao Chỉ Nguyễn Văn Lộc, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Xuân Nghĩa, Bồ Đại Kỳ, một số đoạt giải trong “VVNM” đã trở thành giám khảo như Trương Ngọc Bảo Xuân (rồi lại vác thêm trách nhiệm chánh chủ khảo), Trần Nguyên Đán, Nguyễn Viết Tân, Phạm Hoàng Chương (đã mất), Bồ Tùng Ma (đã mất), Lê Tường Vi, Khôi An, gần đây nhất là Anne Khánh Vân….

Thật tệ, đầu óc tôi. Phan Tấn Hải đến với chúng tôi năm nào, không nhớ. Nhưng với tôi thì lâu lắm, như  từ đầu, như mãi mãi về sau.  Rồi Huỳnh  Kim Quang, Trịnh Y Thư, Thanh Huy, Hưng Doãn, thi sĩ Ngu Yên, Hằng Nguyễn. Còn phải nhớ Trúc Hồ của STBN, lại cho dọn về chung trụ sở của mình, để trở thành anh chị em một nhà. Và điều đáng trân quí biết bao, khi chúng tôi đã mệt, đã nghỉ, tất cả vẫn còn cùng với Hòa Bình giữ tờ Việt Báo, cho đến hôm nay, cùng nhau kỷ niệm Việt Báo 30 năm.

30 năm, biết bao vui buồn. Chúng ta đã xem nhau như anh chị em, như cùng một gia đình. Con tàu vẫn chạy, trẻ hơn, mạnh mẽ hơn. Nặng thêm tình nghĩa.

 

Xin cám ơn tất cả, anh chị em trong gia đình Việt Báo, các thân hữu, các thân chủ quảng cáo, các mạnh thường quân cùng với lời chúc mừng gửi tới tương lai.

Nhã Ca

Chủ Nhiệm Sáng Lập

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.