Hôm nay,  

Con Kỳ Quái

14/07/202419:58:00(Xem: 2608)
1

Truyện chớp. Ngu Yên.
 
 
Từ nhà quàn Vĩnh Biệt, ghé qua phố Bellaire, mua một lò gas đứng, để nấu nướng ngoài trời. Mùa hè đến rồi. Ngày mai sẽ trở lại đưa Định ra nghĩa địa. Lễ hạ huyệt lúc 1 giờ trưa. Giờ tốt. Giờ bói. Con cháu vinh hiển suốt đời. Chết rồi, xương cốt vẫn được tận dụng.  Vinh hiển? Gia đình Định giàu có nhất vùng này. Từ hai bàn tay trắng, anh làm nên sự nghiệp đồ sộ. Càng giàu càng không muốn buông. Dính cứng. Ung thư phổi, chết tuổi trung niên. Nhưng khi tắt thở, mắt anh chỉ nhắm hơn một nửa. Ai vuốt cũng không nhắm. Không dám làm thủ thuật dán kín mắt của nhà quàn vì sợ bên kia đời Định sẽ mù mãi mãi.  Đành cho mang anh đôi kính cận màu sậm lúc trưng bày trong quan tài.

Ráp xong lò, dựng lên sau nhà, dười tàng cây sồi rậm ri bóng mát. Bày bộ bàn ăn hai ghế, loại không sợ nắng mưa. Cắm một cây dù khá lớn vải xanh da trời. Cảnh ngoạn mục mà hai người ngồi ăn trưa, ăn chiều, uống rượu, uống trà cũng ngoạn mục. Của mới thường ham. Nướng thịt, nướng cá, nướng tôm liên tiếp ba bốn hôm. Miếng ăn ngon khiến tình vợ chồng thêm mặn mà. Vài ly bia say khiến tim thêm hứng khởi. Sống phải ngoạn mục. Bất kỳ thời giờ nào, hoàn cảnh nào, phức tạp nào, cũng biến chúng thành ngoạn mục. Tạo cho đời sống sinh động và hấp dẫn là nghĩa vụ của mỗi người. Bí quyết đầu tiên của ngoạn mục là nỗ lực thấy mọi thứ càng rõ càng tốt nhưng chỉ chăm chú những gì thú vị.

Muốn ngoạn mục tiếp tục mặn mà, hứng khởi, phải bảo tồn phương tiện mang đến hạnh phúc. Tôi bỏ ra nửa ngày Chủ nhật để rửa lò thật kỹ. Rồi lau chùi sáng bóng như ngày mới mang về.
-        “Em thấy chưa, mới tinh.”
-        “Anh hay rồi. Tại sao có cái lỗ dưới chân lò vậy?”

Một cái hang có miệng lỗ lớn bằng nắm tay có thể đút vào. Trước đây không thấy. Con gì mới đào cư ngụ ở đây?
-        “Coi chừng rắn. Đúng là rắn. Mùi nấu nướng lôi kéo những cóc nhái thằn lằn tìm đến. Nó chực sẵn đây, chờ mồi. Đúng là rắn rồi.

Vợ tôi lúc nào cũng có câu trả lời, đúng hay sai không phải là mục đích. Nhưng lần này có lẽ đúng. Con rắn chắc phải khá lớn, ít nhất bằng cườm tay. Không chắc. Rắn nhỏ cũng có thể đào hang lớn, như người giàu ở trong nhà lầu, biệt thự, lớn hơn cả trăm lần thân xác. Không đúng. Nhà giàu không tự xây nhà ở, nhưng con rắn phải tự đào hang. Sức đâu mà đào cho lớn.

Chắc gì đã là rắn? Chuột thì sao? Có lẽ. Nướng đồ biển, nướng thịt, làm sao khỏi làm rơi mảnh vụn. Chuột chiếm địa bàn này, chờ đêm bò lên tiệc tùng miễn phí, không lao động. Không lấy gì bảo đảm là chuột. Có thể con gì khác. Muốn biết phải rình? Hay là kế hoạch bắt luôn nó.

Trước khi trời tối, mang một tấm gỗ dài nửa thước, rộng hai gang tay, phết lên một lớp keo dán nền nhà, dẽo kẹo, rãi nhưng mảnh thức ăn thừa còn thơm hoa mỹ, rồi đặt dưới lò nướng. Tôi đi ngủ với nỗi hồi hộp, tò mò, mong đợi và một giấc mơ nguy hiểm.

Nhìn đồng hồ đã 4 giờ 51. Trời khá sáng. Mau ra xem thử con gì bị mắc bẫy. Chạy ra vườn, khom lưng nhìn dưới chân lò, nó. Mày bị trúng kế của tao rồi. Còn làm bộ hung dữ hả?
Dùng máy iPhone chụp nó tấm hình. Mang lên Google tìm hiểu. Không phải kỳ nhông vì nó có dãy răng cưa trên lưng. Không phải kỳ đà vì mặt nó ngắn. Nó tương tựa như một loại tắc kè có yếm đỏ nhưng nó không hoàn toàn giống hình trên mạng. Thân nó độ chừng hơn một gang tay, tròn cở cổ tay, đuôi rất dài và hai chân sau nhô cao lên, có vẻ chạy rất nhanh. Trên đầu có bốn cục u trông như muốn mọc sừng. Toàn thân màu đà đậm nhưng thiết kế lợn cợn, sần sùi, màu xanh rêu đậm. Không biết chính xác là con gì. Gọi là con “Kỳ Quái.”

2
Nó đứng như tượng biết cử động suốt ngày đêm. Tôi chưa biết phải làm gì với nó, nhưng tò mò muốn theo dõi. Mang thức ăn và nước uống mới đến mỗi buổi chiều. Tuy bốn chân bị dính cứng trong keo, nhưng mỗi khi tôi đến gần, ngày hôm trước, mắt nó tỏ vẻ giận dữ, cử chỉ hành hung như con vật trong màn múa rối; ngày hôm sau mắt tỏ vẻ nghĩ ngợi, cử động phòng thủ nhiều hơn hăm dọa; ngày thứ ba mắt nhìn thấy buồn bã và cầu khẩn, thoi thóp. Nó chết ngày thứ tư. Thân hình phục xuống trên bốn chân. Đầu gục về phía trước dính vào keo. Mắt nhắm hơn một nửa, hí nhìn không còn cảm giác.

Chẳng hiểu vì sao, ánh mắt nó làm tôi nhớ tới Định. Một người chồng tốt, một người cha tốt, một tín đồ tốt, một công dân tốt, một bạn tốt, một người gần như hoàn hảo, nhưng khi đến thăm Định lần cuối trong bệnh viện, anh nói: “Tôi chán đời sống này quá. Có lẽ, chết đi cũng là ơn phước.”  

Mắt của Định lúc đó nhìn tôi vô cùng buồn bã, khác những lần khi anh tranh tiên những hợp đồng sản xuất, ánh mắt giận dữ, khôn ngoan, linh hoạt. Khó mà biết được những xung đột trong tâm tư người khác, nếu họ không tâm sự. Cũng có những người nhận biết sự mâu thuẫn của mình. Hầu hết đều không hiểu rõ bản thân. Giận dữ, hăng hái đối phó với đời sống. Rồi một hôm, vì lý do nào đó, hoàn cảnh nào đó, câu nói nào đó, thức tỉnh trong mơ hồ, nghĩ ngợi về giá trị đời sống. Thường thường là quá muộn. Chân bị chôn chặt vào những thứ tưởng là hạnh phúc, một loại hạnh phúc keo. Tôi vẫn còn nghe bên tại, tiếng Định nói: “Tôi có tất cả mọi thứ nhưng tất cả mọi thứ đó không thuộc về tôi.” Định sống đời còn lại, dính cứng, như tượng biết cử động. Để rồi một hôm mắt hí nhỏ hơn một nửa, vô cảm.

Tôi chôn con kỳ quái, chôn Định, nhưng không thể chôn thứ keo gì đã dính cứng đời mình. Làm người là để xông xáo tìm kiếm và thu đạt những gì mong ước. Sau một thời gian, sẽ bị dính cứng vào thứ này, thứ mà ai cũng tưởng và tin là hạnh phúc. Đêm đó, không ngủ được. Tôi thử nằm im tĩnh, hí mắt lại, nhìn xung quanh, dường như có thể nhìn thấy mọi vật rõ hơn là khi mở mắt to. Chợt một ý nghĩ mon men, muốn thấy rõ phải hí mắt. Ngay lúc đó, tôi cảm thấy thấm thía hơn hai chữ “ngoạn mục.”

Ngu Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.