Hôm nay,  

Song ngữ: Khi Tranh Luận Dứt Bặt // When the Quarrels Disappear

1/9/202509:19:00(View: 1894)
blank 

Khi Tranh Luận Dứt Bặt
 

Nguyên Giác
 

Chúng ta thường bị mắc kẹt giữa những cuộc tranh luận. Sống trong cõi này mà thoát khỏi những cuộc tranh luận thì rất hy hữu. Nơi đây, không bàn chuyện tranh luận chính trị, hay tranh luận giữa các tôn giáo; những cuộc tranh luận như thế đã dẫn tới những cuộc chiến tranh đẫm máu từ nhiều ngàn năm qua. Trong cổng nhà chùa Việt Nam, chúng ta cũng gặp những cuộc tranh luận. Không chỉ tranh luận giữa các tông phái, mà còn là tranh luận trong tâm của từng người một. Thực tế, với người hiểu đạo, một cách tự nhiên sẽ thấy không cần tranh luận nữa.
 

Trong tâm người tu, cuộc tranh luận lớn nhất là đi tìm lộ trình để xa lìa cõi sinh tử, tức là con đường đi từ cõi luân hồi tới Niết bàn. Cách nói khác: phải biện biệt để đi từ thế giới hữu vi tới thế giới vô vi. Khi chúng ta nói rằng có một thế giới vô vi, ngôn ngữ có thể đánh lừa chúng ta, vì thế giới vô vi, hay Niết bàn không nằm ở phương nào trong bốn hướng Đông, Tây, Nam và Bắc.
 

Thế giới hữu vi là những gì hiển lộ nơi sáu căn cùa chúng ta. Nó là những gì được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, và được tư lường. Tất cả hiện tượng trong thế giới hữu vi là vô thường, là bất như ý, là vô ngã. Trong thế giới hữu vi, chúng ta thấy được các pháp sanh, già, bệnh chết. Tuy nhiên, Thiền Tông nói rằng ngay nơi đó cũng là Niết Bàn, vì sóng không rời nước, và ảnh không rời gương.
 

Mặt ngược lại, tuy rằng Đức Phật và các vị thánh tăng được nhìn thấy đã đi, đứng, nằm, ngồi như những người đời thường, nhưng quý ngài đã sống trong Niết bàn, trong cảnh giới vô vi. Đức Phật và các vị thánh tăng thời xa xưa tuy vẫn thuyết pháp, vẫn khất thực hàng ngày, vẫn nói, vẫn ăn và uống, nhưng quý ngài thực sự là đã sống với vô sanh.
 

Đức Phật đã nói trong Kinh MN 140 rằng khi người lìa xa vọng tưởng thì được gọi là ẩn sĩ tịch tịnh, và lúc đó họ tuy còn ở cõi này, nhưng họ đã không sanh, không già, và không chết. Thời sinh tiền, tuy quý ngài vẫn mọc tóc bạc, nhưng quý ngài không còn già nữa; tuy quý ngài có lúc vẫn ho, vẫn cảm cúm, vẫn đau lưng hay nhức chân, nhưng quý ngài thực sự không còn bệnh nữa; tuy quý ngài vẫn phải tắt thở, phải buông thân mạng để hỏa thiêu khi viên tịch, nhưng quý ngài thực sự không còn chết nữa.
 

Như thế, khi một người tu đã giải thoát, tâm của họ không còn chập chờn giữa chơn và vọng nữa. Toàn bộ sáu căn của Đức Phật và các thánh tăng là toàn chơn. Nhưng không giống như chuyện thay áo hay đổi giấy căn cước, tâm giải thoát không phải là cái gì từ cõi khác tới để thay thế tâm vọng tưởng.

Kinh Lăng Nghiêm nói rằng người tu khi thể hội cái chơn tâm, họ quán sát căn bản phiền não sẽ dứt hết các vọng tưởng. Lúc đó trong khi họ thấy, nghe và nhận biết, thì vọng tưởng đã dứt bặt trong tâm của họ, và hiển lộ sẽ là chân thường. Y hệt như trong một vở kịch, tất cả người trên sân khấu chỉ là các vai diễn. Người nào nhìn thấu suốt hậu trường vở kịch, thấy tận tường các vai diễn, người đó sẽ không còn khóc hay cười theo các diễn viên nữa.

Thiền sử Việt Nam có kể về Thiền sư Chân Nguyên (1647 - 1726), người đã khôi phục lại thiền phái Trúc Lâm. Ngài Chân Nguyên có bài thơ bốn câu, nội dung giải thích rằng đối với người đã chứng ngộ được pháp vô vi trong tâm, tức là tự tánh của tâm, thì toàn bộ sáu căn đều hiển lộ cái sự thật thường trụ, tĩnh lặng, bất biến.
 

Bản phiên âm Hán-Việt là:

Hiển hách phân minh thập nhị thì,

Thử chi tự tánh nhậm thi vi.

Lục căn vận dụng chân thường kiến,

Vạn pháp tung hoành chánh biến tri.
 

Dịch nghĩa:

Bày hiện rõ ràng, minh bạch được trọn ngày,

Đây là tự-tánh-biết phô bày không bị ngăn ngại.

Sự thật thường trụ ứng dụng được thấy nơi sáu căn,

Muôn pháp dù dọc hay ngang đều được giác ngộ, biết rõ.

  

Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) nói rằng cái tánh biết thường trực đó không phải từ ngoài chen vào thân tâm chúng ta. Cái biết thường trực đó vốn là thanh tịnh, tròn đầy, vốn không dính một hạt bụi. Trần Thái Tông viết trong sách Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi rằng chỉ vì có “Năng sở nương nhau, Phật, ta hai ngả,” nghĩa là vì chúng sanh chấp là có cái-tôi và cái-của-tôi, nên mới thấy hai đằng dị biệt là Phật và tôi.  
 

Thiền sư này lấy hình ảnh vọng tưởng như gió làm dậy sóng trên mặt nước của tâm; tương tự, vọng tưởng cũng như bụi bám đã làm mở ảnh hiện nơi gương tâm. Trần Thái Tông viết rằng muốn cho thân và tâm thanh tịnh, thì hãy để “gió lặng, sóng dừng; bụi hết, gương sáng.”
 

Khi Trần Thái Tông nói Phật và ta bị nhận lầm là hai ngả, tức là Niết bàn và cõi phiền não bị nhận lầm là hai đường dị biệt. Ngài nói, thực sự không có dị biệt nào hết, bởi vì sóng chính là nước, và ảnh chính là gương.
 

Vị Thiền sư Trung Hoa Linh Sơn Quy Hựu (771-853) viết rằng, “Nếu người tu khi thật ngộ được gốc thì họ tự biết, tu cùng với không tu chỉ là lời nói hai đầu.”
 

Nghĩa là, thấy được cội nguồn của tâm giải thoát, thì không còn bận tâm chuyện tu hay không tu nữa. Bởi vì nơi sáu căn, tất cả đều tịch lặng, đều xa lìa ngôn ngữ, đều là gương tâm hiện ảnh, mà ảnh thì lưu chuyển hoài, nhưng gương tâm vẫn bất động, trong trẻo, thanh tịnh.
 

Kinh Snp4.5 Sutta cũng ghi lời Phật nói rằng người nào đã buông bỏ hai đầu, buông hết mọi kiến chấp trong tâm thì họ sẽ không còn tranh cãi gì nữa trong cõi này. Lúc đó, khi người tu gặp tất cả những gì được thấy, được nghe và được nhận biết, sẽ không có một niệm nào khởi lên trong tâm nữa. Đó là thấy, nghe và biết trực tiếp, không hề qua bất kỳ diễn giải nào, ngôn ngữ nào, và cũng không hề lý luận hay mơ tưởng gì nữa. Với họ, các cuộc tranh cãi đã biến mất. Đó cũng là cốt tủy của Thiền Tông.

 

.... o ....
 

When the Quarrels Disappear
 

Written and Translated by Nguyên Giác
 

We often find ourselves caught in the midst of quarrels. It is rare to navigate this world without encountering quarrels. Here, we are not referring to political conflicts or those between religions; such quarrels have sparked bloody wars for thousands of years. Even at the gates of Vietnamese temples, we sometimes encounter quarrels—not only between sects but also within the hearts of individuals. In truth, for those who comprehend the Dharma, it becomes clear that there is no longer a need for quarrels.


 

In the mind of a practitioner, the most significant debate revolves around discovering the path to transcend the cycle of birth and death, specifically the journey from samsara to Nirvana. In other words, we must learn to navigate from the conditioned world to the unconditioned realm. When we assert that an unconditioned world exists, language can mislead us, as the unconditioned world, or Nirvana, is not situated in any of the four cardinal directions: East, West, South, or North.
 

The conditioned world is what manifests through our six senses: sight, hearing, smell, taste, touch, and thought. All phenomena in the conditioned world are impermanent, unsatisfactory, and devoid of a permanent self. Within this realm, we observe the cycles of birth, aging, sickness, and death. However, Zen teaches that Nirvana exists within this very experience, for the wave does not separate from the water, and the reflection does not depart from the mirror.
 

Contrarily, despite their appearance as ordinary people walking, standing, lying, and sitting, the Buddha and the holy monks resided in Nirvana, the unconditioned realm. The Buddha and the holy monks of ancient times still preached the Dharma, begged for alms every day, spoke, ate, and drank, but they actually lived with the unborn.
 

In the MN 140 Sutta, the Buddha stated that a practitioner who is free from delusions is known as a tranquil recluse. At that moment, although he remains in this world, he is not subject to birth, aging, or death. During his lifetime, even though his hair may turn white, he is no longer considered old. While he may occasionally cough, experience flu symptoms, or suffer from back or leg pain, he is genuinely free from illness. He is truly no longer dead, even though he must eventually stop breathing and surrender his life for cremation upon passing.
 

Thus, when a practitioner attains liberation, their mind no longer oscillates between truth and delusion. The entirety of the six senses of the Buddha and the holy monks is entirely authentic. However, unlike changing clothes or identity cards, the liberated mind is not an external entity that replaces the deluded mind.
 

The Shurangama Sutra states that when a cultivator realizes the true mind, he observes the fundamental afflictions and ultimately ends all delusions. At that moment, while he sees, hears, and perceives, delusions will cease in his mind, revealing what is true and eternal. Similar to a play, every character on stage is merely a role. Those who see beyond the stage will clearly recognize the roles, and such individuals will no longer cry or laugh along with the actors.
 

Vietnamese Zen history tells of Zen Master Chân Nguyên (1647-1726), who restored the Trúc Lâm Zen sect. Chân Nguyên wrote a four-line poem explaining that for those who have realized the Dharma of the unconditioned in the mind—that is, the true nature of the mind—all six senses reveal the truth of permanence, stillness, and immutability.
 

The poem has been transformed into prose as follows: All phenomena are clearly revealed throughout the day. This is the nature of unobstructed awareness. It is the eternal truth, perceived through the six senses. All dharmas, whether vertical or horizontal, are distinctly recognized and understood.

 

Zen Master Trần Thái Tông (1218-1277) said that the constant nature of awareness does not come from outside and intrude into our body and mind. This constant awareness is intrinsically pure, complete, and untarnished by a single particle of dust. Trần Thái Tông wrote in the book Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi that it is only because there is “Năng sở nương nhau, Phật ta hai ngả,” meaning because sentient beings grasp that there is an “I am” and a “mine” that they see two different sides, Buddha and me.
 

This Zen master likened delusion to the wind that stirs up waves on the surface of the mind's water; in a similar vein, delusion can be compared to the dust that obscures the reflection in the mind's mirror. Trần Thái Tông stated that to achieve purity in both body and mind, one must calm the wind so that the waves cease; likewise, when the dust is removed, the mirror becomes clear.

Trần Thái Tông said that people mistakenly perceive Buddha and sentient beings as two distinct paths, i.e., Nirvana and the realm of afflictions. In reality, there is no difference at all, as the wave represents water and the image represents the mirror.
 

The Chinese Zen master Guishan Lingyou (771-853) stated, “If a practitioner truly understands the root, he will recognize for himself that practicing and not practicing are just two-sided words.”
 

When one perceives the essence of a liberated mind, concerns about practicing or non-practicing dissipate. In the realm of the six senses, everything is tranquil and detached from language; they serve as reflections of the mind. Although images continuously circulate, the mind's mirror remains still, clear, and pure.
 

The Snp4.5 Sutta also records the Buddha stating that those who have relinquished all extremes and abandoned all mental views will no longer experience quarrels in this world. Upon encountering everything seen, heard, and perceived, the practitioner's mind will remain devoid of any thoughts. This is direct seeing, hearing, and knowing—free from interpretation, language, reasoning, or daydreaming. For such an individual, quarrels have vanished. That is also the essence of Zen.

.

Tham Khảo / Reference:

Snp4.5 Sutta:

https://suttacentral.net/snp4.5/en/mills

https://suttacentral.net/snp4.5/en/sujato

https://thuvienhoasen.org/a30598/sn-4-5-parama-haka-sutta-kinh-ve-toi-thuong

- Kinh AN 3.47: https://suttacentral.net/an3.47/vi/minh_chau

https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A2n_Nguy%C3%AAn

.... o ....

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
2/3/202508:43:00
Bài thơ Ngũ Vị soạn bởi Thiền sư Động Sơn (807-869), người khai sáng ra Tông Tào Động. Bài thơ nói về tương tác của hai khái niệm: Chính và Thiên. Các khái niệm này dễ hiểu hơn, nếu chúng ta sử dụng một số chữ khác. Chính tức là Không, và Thiên tức là Sắc. Chính tức là Tánh, và Thiên tức là Tướng. Chính tức là Lý, và Thiên tức là Sự.// Zen Master Dongshan (807-869), the founder of the Soto Zen sect, composed the poem Five Ranks. This poem explores the interaction between two concepts: Chính and Thiên. Alternative terms can clarify these concepts. Chính refers to Emptiness, while Thiên signifies Form. Additionally, Chính can be understood as Essence, and Thiên as Appearance. Furthermore, Chính represents Principle, whereas Thiên denotes Phenomenon.
1/31/202510:55:00
Christiana Figueres, một nhà ngoại giao người Costa Rica được biết đến nhiều nhất với tư cách là kiến trúc sư của thỏa thuận khí hậu Paris năm 2015, đã chuyển sang một chiến lược mới để bảo vệ khí hậu thế giới: truyền bá lời dạy của Thích Nhất Hạnh, một nhà sư Phật giáo và là nhà hoạt động vì hòa bình đã viên tịch hồi năm 2022.
1/29/202500:41:00
Con rắn là một hình ảnh dễ làm cho chúng ta sợ hãi. Tuy nhiên, trong Kinh Phật cũng có vài nơi, con rắn không hung dữ chút nào. Bài này sẽ kể về hai tích truyện trong Kinh Pháp Cú có liên hệ tới hình ảnh con rắn. // Buddhist scriptures often depict the snake as non-threatening, despite its common association with fear. This article will explore two stories from the Dhammapada that relate to the symbolism of the snake.
1/28/202508:42:00
Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết nói rằng người tu không nên giữ tâm phân biệt. Do vậy, những lời khen cũng như hoa trời rơi trên thân sẽ rơi xuống đất, không bị vương vào áo hay thân.// The Vimalakirti Sutra states that practitioners should cultivate a non-discriminating mind. Consequently, praise or heavenly flowers that fall upon the body will not adhere to clothing or the body but will instead fall to the ground.
1/27/202510:50:00
Sống ở đời, thử hỏi có mấy ai chưa từng mơ ước? Có mấy ai chưa từng nương bóng ước mơ để kiến lập một lý tưởng, một lẽ sống của kiếp người. Bạn và tôi, mỗi chúng ta đều đã và sẽ có những ước mơ chung và ước mơ của riêng của chính mình.// Living in this world, how many people have never dreamed? How many have never relied on dreams to establish ideals or find a reason for living? Each of us—you and I—shares common dreams while also nurturing our own unique aspirations.
1/23/202515:30:00
Trong Thiền Tông thường nói rằng khi ngọn đèn sáng thắp lên, thì bóng tối của vô lượng kiếp sẽ biến mất. Hình ảnh đó còn được giải thích là, khi người tu thấy được ánh sáng của bản tâm, nơi không có gì được bám víu, thì vô lượng nghiệp xấu đều biến mất. Kinh điển giải thích điểm này thế nào? / In Zen Buddhism, it is often stated that when a bright lamp is lit, the darkness of countless eons vanishes. This metaphor is further elucidated by the idea that when a practitioner perceives the light of the original mind—where there is nothing to cling to—countless negative karmas dissipate. How do the scriptures articulate this concept?
1/16/202513:45:00
Thứ Tư, ngày 15 tháng 1, 2025, gia đình và đông đảo bạn hữu đã đưa tiễn họa sĩ/nhà văn Khánh Trường về nơi an nghỉ ở Peek Family, Westminster. Chương trình tang lễ ngắn gọn nhưng ấm cúng, thân tình, và thật cảm động với nhiều lời phát biểu chia sẻ của gia đình và nghệ sĩ thân hữu. Việt Báo đã đăng tải và chia sẻ nhiều bài viết từ bạn bè, văn hữu trong số báo đặc biệt về Khánh Trường ngày 3 tháng 1, 2025, sau đây là bài điếu văn của con gái út của Khánh Trường, Annie Nguyễn Trường An, đọc bởi chồng Cô trong buổi tang lễ bằng tiếng Anh, Lê Anh Dũng biên dịch sang tiếng Việt.
1/14/202508:07:00
Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. // When studying the history of Zen in China and Vietnam, we often come across monks who taught or responded in ways that transcended verbal communication
1/12/202507:14:00
Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. // When we say that many Vietnamese people have studied Buddhism since their cradle, we are illustrating the deep connection between Buddhism and the history of the Vietnamese people that spans thousands of years.
1/10/202508:09:00
Bạn có thể tập được như thế. Khi bạn thấy bạn là người gỗm thì tâm sẽ không có tướng sanh, cũng không có tướng diệt. Thấy mình như như thây chết như thế, chính là sống với cái sát na tịch diệt, sống với cái vắng lặng bất khả tư lường. Và đó chính là Niết Bàn Tâm.// When you perceive yourself as a wooden figure, the mind will exhibit no signs of birth or death. This state of being resembles living as a miraculous corpse. To see yourself in this way is to exist in the moment of extinction, embracing immeasurable silence. This is the essence of the Nirvana Mind.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.