Hôm nay,  

Chuyện Vãn: Tiếng Lóng Xưa & Nay

18/07/202500:00:00(Xem: 2365)
 
tieng long
 
tieng long 2
 
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…

Tiếng lóng mang tính khẩu ngữ, thông thường không mang nghĩa trực tiếp mà chỉ được hiểu theo ý nghĩa tượng trưng, ẩn dụ mà cụ thể thì chỉ những người sử dụng mới hiểu. Dần dà theo thời gian được phổ biến rộng rãi. Cũng như tiếng Pháp, tiếng Anh hay các sinh ngữ khác, tiếng Việt phát triển thay đổi theo thời gian là tất yếu. Vì vậy các bộ tự điển luôn cập nhật, nhất là danh xưng về khoa học, kỹ thuật, điện toán… nhưng không có tiếng lóng.

Trước hết, tôi xin nói rõ không phải là nhà ngôn ngữ học, bình luận văn học để phân tích, cội nguồn chữ nghĩa mà dẫn chứng tổng quát qua các bài viết, tài liệu thu thập với chuyện vãn. Trong bài viết nầy có những tiếng lóng lặp lại vì trùng với sự trích dẫn cho trọn ý.

Vào thời VNCH ở Đại Học Văn Khoa Sài Gòn môn Ngôn Ngữ Học là môn học khó nuốt nhất, sinh viên qua được cửa ải nầy cảm thấy nhẹ nhàng. Các giáo sư nổi tiếng nhất như LM Lê Văn Lý, chuyên gia về ngữ pháp tiếng Việt trong Luận Án Tiến Sĩ Quốc Gia Le Parler Vietnamien sau nầy ấn hành Sơ Thảo Ngữ Pháp Việt Nam. GS Nguyễn Đăng Liêm, nhà ngữ học chuyển từ nguyên bản tiếng Pháp luận án Le Parler Vietnamien sang tiếng Anh The Vietnamese Spoken Language. GS Lê Ngọc Trụ tuy không có bằng cấp cao, học vị nhưng là học giả nổi tiếng về ngôn ngữ học, tác giả Tự Điển Cánh Tả Tự Vị, Tầm Nguyên Tự Điển Việt Nam…

GS Lê Ngọc Trụ đề cập tiếng lóng xì bo, xít bo, ết bo… Khi kênh kết hợp với xì bo để trở thành tiếng lóng là theo cấu trúc Việt - Pháp nửa nạc nửa mỡ, bởi tiếng Việt đã có chữ kênh được hiểu là kênh kiệu, vênh váo, kiêu căng. Người miền Nam còn sử dụng từ nghinh là vác mặt lên, xem kẻ đối diện không ra gì, chỉ coi bằng nửa con mắt bằng cái nhìn khiêu khích, những muốn gây sự. Nhà thơ Tú Mỡ viết: Bạn gái ngày xưa thích xịch bo.

Trong tiếng Anh slang có nghĩa là tiếng lóng thường được sử dụng. Tiếng Pháp gọi là argot hoặc verlan. Argot là tiếng lóng truyền thống. Verlan là đảo âm của từ l’envers (nghĩa là ngược lại). Tiếng lóng (argot des déclassés) bao gồm một số từ bí hiểm để che dấu tư tưởng của người nói, không phổ biến nhiều người khác trong mình biết. Quyển Les jeux de Mots (Chơi Chữ) của Pierre Guiraud, đề cập tiếng lóng largonji của tiếng Pháp. Thổ Nhĩ Kỳ là argo; Bồ Đào Nha là gíria; Ba Lan là gwara; Hà Lan là straattaal; Đức là umgangssprache…

Trong tiếng Hoa (Hán) gọi là 俚语, phiên âm tiếng Việt là lǐ yǔ (lý ngữ). 俚 (lǐ) nghĩa là dân dã, bình dân, thô tục, 语 (yǔ) nghĩa là ngôn ngữ, lời nói.
Vì vậy chữ Nôm được hình thành từ cuối thế kỷ 10 và phổ biến từ thế kỷ 13 đã sử dụng tiếng lóng và sau đó trong thơ, văn… vì chữ Nôm biến đổi chữ Hán để ghi lại tiếng nói của mình. Chữ Nôm bằng cách ghép hai yếu tố: Bộ thủ (gợi nghĩa) và chữ Hán mang âm gần giống (gợi âm), sau nầy có chữ Quốc Ngữ.

Tiếng Việt đơn âm nên đã du nhập trong tiếng Anh, tiếng Pháp trong tiếng lóng thành một chữ, có khi hai, ba chữ… nên rất đa diện.

Tiếng lóng là ngôn ngữ đã được biến thể và sáng tạo dựa vào loại ngôn ngữ đã có sẵn. Hầu như các quốc gia đều có tiếng lóng, Việt Nam thì đa dạng hơn bởi ngoài tiếng lóng tiếng Việt, thì còn xuất hiện thêm tiếng lóng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hán… Tiếng Việt là ngôn ngữ chung, chính thức đang được mọi người sử dụng hằng ngày nên mọi người đều hiểu nhưng tiếng lóng thì có số đặc thù riêng như chỉ có tính tạm thời, được sử dụng trong phạm vi hẹp, không có hệ thống rõ ràng trong giao tiếp.

Ở thời đại ngày nay, giới trẻ cũng hay sáng tạo những từ lóng riêng và được sử dụng trong giao tiếp hằng ngày, hoặc trên các trang mạng xã hội. Ở trong nước hiện nay sử dụng tiếng lóng rất nhiều, trở thành trào lưu tiếng lóng như trên Facebook, có những chữ chỉ đọc một lần, không hiểu gì cả vì vay mượn tùy tiện tự ý lung tung, nửa Việt nửa Anh, Pháp…! Vì vậy tiếng lóng ngày nay trở thành hiện tượng tràn lan nhiều nhất, không thể cập nhật hết!

Nhà văn Song Thao trước đây trong bài phiếm Tiếng Lóng Sài Gòn “khi Sài Gòn còn tên, khi mất tên thì Sài Gòn đâu còn là Sài Gòn nữa”. Trong bài nầy tác giả dẫn chứng vài mẩu chuyện xảy ra với các nhân vật và các mẩu chuyện liên quan đến Tiếng Lóng Sài Gòn. Sau khi liệt kê chuyện xưng hô thứ bậc trong xã hội được phân chia theo chín giai cấp rất cứng nhắc, tác giả dẫn chứng:

“… Tiếng lóng Sài Gòn nổi tiếng nhất có lẽ là “OK Salem”. Tôi chắc là tới ngày nay mọi người vẫn chưa quên từ “OK Salem”. Có điều vui vui là ngay chữ OK đã là một tiếng lóng của Mỹ. Có nhiều giả thuyết về tiếng lóng ngày nay được dùng khắp nơi trên thế giới này. Một số người cho chữ này bắt nguồn từ chữ “okeh” của bộ lạc da đỏ Choctaws ở châu Mỹ. Nghĩa của “okeh” là… OK. Theo nhà ngôn ngữ học Allen Waiker Read, OK là dạng viết tắt của cụm từ “All Correct”…

Năm 1965, những quân nhân đầu tiên của Tiểu Đoàn 3, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, đổ bộ xuống Đà Nẵng, tiếng lóng OK đã theo chân các chú G.I. du nhập vào Việt Nam. OK lập tức được Việt hóa thành “OK Salem” khi dân đạp xích lô, trẻ đánh giầy chạy theo lính Mỹ chìa tay xin thuốc lá hay kẹo cao su. Càng ngày số lính Mỹ tại Việt Nam càng gia tăng. Họ có mặt trên nhiều tỉnh thành. Các quán snack bar mọc lên như nấm để phục vụ nhu cầu giải trí của họ.

Khác với các snack bar bên Mỹ là những cửa hàng bán thức ăn nhẹ, xì-nách-ba ở Việt Nam là nơi uống rượu giải sầu của đám thanh niên trai tráng xa nhà. Giải sầu phải có các cô gái ngồi bên cùng uống mới có ép-phê nên một loạt các cô gái bán bar với áo quần cũn cỡn, đổ xô nhau hành nghề. Họ không uống rượu mà mè nheo lính Mỹ mua “Saigon tea” với giá khoàng 1 đến 2 đô một ly cho họ uống. “Saigon Tea” trở thành một tiếng lóng mà anh lính Mỹ nào cũng nằm lòng. Các cô gái bán ba thường ít học, không biết tiếng Mỹ nên sáng chế ra các tiếng lóng giả cầy mà anh lính Mỹ nào cũng hiểu như “No star where” (Không sao đâu), “Buy me Saigon tea” (Mua Saigontea cho em). Tiếng Mỹ giả cầy còn có từ “mumber one” mà ta gọi là “số dzách”. Thành phần bình dân giao dịch với lính Mỹ muốn khen anh G.I. chi xộp chỉ cần giơ một ngón tay: “You number one”. Vậy là hai bên đều hiểu là một câu khen. Trái ngược lại “number ten” là câu chê. Thậm tệ hơn là câu chê “năm-bơ-ten tháo giường”. Đó là phiên âm của  “number ten thousand”!

Sài Gòn là thành phố rất sinh động nên thời nào cũng phát sinh ra tiếng lóng của thời đó. Thời Pháp thuộc, nhà bưu điện gọi là “nhà dây thép”, con tem gọi là “con cò”, cảnh sát trưởng một quận được gọi là “ông cò”, nhân viên sửa morasse tại các tòa báo là “thầy cò”, tay môi giới chạy việc là “cò mồi”, tiền môi giới chạy việc gọi là “tiền cò”. Không biết có còn những “cò”nào  khác không?

Khi kinh tế phát triển, xe hơi có tiếng lóng là “xế hộp”, xe ngựa là “ôtô hí” , xe đạp là “xế độp”, đi nhảy đầm là “đi bum”, đi tán gái là “chim gái” hoặc “cua gái” hay “o mèo”, cua gái với ý đồ xấu là “bắt bò lạc”, đi ngắm gái là “đi nghễ”, quần là “quởn”, quần áo xịn diện đi chơi là “đồ vía”, chơi tứ sắc là “đi xòe”, đánh chắn là “múa quạt”, chơi mạt chược là “đi xoa”, đi uống rượu là “đi nhậu”, tiền bạc gọi là “địa”, nhiều tiền là “đông địa”, làm tiền người khác là “bắt địa”, ăn cắp là “chôm chỉa” hay “nhám tay” hoặc “cầm nhầm”, tuyệt vời là “hết sảy”, không giữ lời hứa là “xù”, bố mẹ là “ông bà via” hoặc “khứa lão”…
Báo hàng ngày gọi là “nhật trình”. Nhật trình ra hàng ngày nên những giờ trước khi báo ra tòa soạn nhộn nhịp như đánh vật. Kẻ chạy ra, kẻ đi vô, cột báo thiếu mấy phân cần trám vô, vậy là “tin kho tiêu” được moi ra. Tin kho tiêu là tin không cần thời gian, cứ vứt đó, khi nào có một khoảng trống cần ráp vô là moi ra xài… Tin loại “chó cán xe” đáp ứng được cái tính đó. Những tin quan trọng được gọi là “tin vơ-đét”, nhại từ chữ tây vedette, được bưng lên trang nhất. Tóm tắt tài liệu thành một bài tóm gọn gọi là “luộc bài”, chắp nhiều nguồn vào thành một bài gọi là “xào bài”. Tin tung ra để thăm dò dư luận là “tin ba-lông”. Đây là một thứ tin có thể có thật chưa được tiết lộ, tung ra để coi phản ứng của độc giả. Tin ba-lông khác với “tin phịa” là tin hoàn toàn bịa đặt…” (Song Thao)

Ngoài ra, loan tin thất thiệt, lóng gọi là “tin phịa”, nhưng trong “tin phịa” còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là “tin ballons” tức thả quả bóng thăm dò, hay tin nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng Tư, gọi là “tin Cá tháng Tư”.

Thời các vũ trường du nhập Sài Gòn, dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng lóng du nhập như Tài-pán, Cai gà tức người điều phối nhóm vũ nữ. Gọi cảnh sát là “mã tà”, “phú lít”, vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành “mã tà”. “Gác-dang” người làm bảo vệ, tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dang. Gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là “con cò”. Nếu gọi “ông cò” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, như tuồng cải luông Ông Có Quận 9 (lúc đó thủ đô sài Gòn không có quận 9). Gọi “thầy cò” tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói “cò mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền cò” thì cũng giống như sau nầy “tiền bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.

Cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng “hia mão”, có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. “Kép chầu” là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được phân vai diễn gánh hát, đêm đêm họ cũng xách vali chầu chực, trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì kép chầu thay thế vào ngay. “Kép chầu” phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó. Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là “đào thương”, kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là “kép độc”. Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là “café à la... ghi” tức uống café thiếu ghi sổ...

Đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi cấp”, đi khiêu vũ gọi là “đi bum”, đi tán tỉnh chị em gọi là đi “chim gái”, đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ vàng là “khoẻn”, gọi quần là “quởn”, gọi bộ quần áo mới là “đồ día-vía”. Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi xòe”, đi đánh chắn gọi là “múa quạt”, đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa, đi xoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”, đi hớt tóc gọi đi “húi cua”. “Đi đầu dầu”, tức các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là “hết sẩy”, quê mùa chậm chạp gọi là “âm lịch”… “Địa” là moi tiền túi, “bắt địa” làm tiền, có thời trong giới bụi đời thường kháo câu “khứa lão đa địa” có nghĩa ông khách già đó lắm tiền. Không giữ lời hứa gọi là “xù, xủ quẻ”, “xù tình”, tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Ăn cắp là “chôm chỉa”, tương tự như “nhám tay” hay “cầm nhầm” những thứ không phải của mình.

Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là “tịch”, “tiêu” (tiêu tùng), “mặc chemise gỗ”, “đi auto bươn”, “về chầu diêm chúa”, “đi buôn trái cây” hay “vào nhị tỳ”, “nhị tỳ” thay cho nghĩa địa và “số dách” thay cho số một... đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.

Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là “vòng vo Tam Quốc”, ai nói chuyện trên trời dưới đất gọi là “chuyện Tề Thiên”, tính nóng nảy gọi là “Trương Phi”. Tính đa nghi gọi là “Tào Tháo”…

Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là “Nhạc Bất Quần”, “Ngụy Quân Tử” tức ám chỉ người ngụy quân tử, đạo đức giả. “Lão Ngoan Đồng” (Chu Bá Thông, sư đệ Vương Trùng Dương) là ông già vui tính. “Vi Tiểu Bảo” là người ma lanh, láu cá. “Điền Bá Quang” với danh hiệu Vạn Lý Độc Hành, Đại Đạo Hái Hoa, ám chỉ con người dâm tặc. “Con trâu nước” sư phụ Hồng Thất Công gọi Quách Tĩnh bởi tướng người cục mịch, da ngăm đen, chậm hiểu, nhưng sau nầy Quách Tĩnh trở thành nhân vật võ công thâm hậu. “Sinh Tử Phù” là môn ám khí do Thiên Sơn Đồng Lão sáng chế. Khi bị trúng Sinh Tử Phù thì vật vã khổ sở, muốn sống không được, chết cũng không xong. Trước năm 1975 và sau nầy ở hải ngoại khi gọi kẻ nào đó bị cấy “sinh tử phù”  là bị đầu độc để thừa lệnh phải thi hành. Ở trong nước thì ví von cho Trung Cộng để thừa lênh…

Dân chơi miệt vườn gọi “công tử Bạc Liêu”. “Dân chơi cầu ba cẳng” có lẽ tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi “dân chơi cầu ba cẳng”. “Dân xà bát”, “anh chị bự”, “main jouer” tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là “anh hùng xa lộ”, bị bắt gọi là “tó”, vào tù gọi là “xộ khám”. Bỏ học gọi là “cúp cua”, bỏ sở làm đi chơi gọi là “thợ lặn”, thi hỏng gọi là “bảng gót”. Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ KN qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó “đi ăn chè” trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô.
Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như “chà đồ nhôm” tức “chôm đồ nhà”, “chai hia” tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với “cưa đôi”. Tiếng lóng thời sự loại này có “tô ba lây đi xô xích le” tức “Tây ba lô đi xe xích lô”. Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than “buồn như chấu cắn”, hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng “lu bu” để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm “lu xu bu” nại lý do không rõ ràng để trốn việc.

Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành “quả tó”, gọi chiếc xe Honda là “con rim”, gọi tờ giấy 100USD là “vé”, đi ăn cơm bình dân gọi là “cơm bụi”, xuống phố dạo chơi gọi là “đi bát phố”, gọi người lẩm cẩm là “dở hơi”... Gọi cảnh sát là “mã tà”, “phú lít” vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành “mã tà”. “Tiền boa” tiền cho thêm người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi “tiền boa”, sau này chế ra là “tiền bo”.

Gọi sở bưu điện là “nhà dây thép”, mua tem dán bao thư gọi là “con cò”, còn nếu gọi “ông cò” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi “thầy cò” tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói “cò mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền cò” thì cũng giống như “tiền bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.

Đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi cấp”, đi khiêu vũ gọi là “đi bum”, đi tán tỉnh chị em gọi là đi “chim gái”, đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ vàng là “khoẻn”, gọi quần là “quởn”, gọi bộ quần áo mới là “đồ día-vía”. Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi xòe”, đi đánh chắn gọi là “múa quạt”, đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa. Đi xoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”, đi hớt tóc gọi đi “húi cua”. “Đi đầu dầu” ám chỉ các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ.

Tiền bạc gọi là “địa”, có thời trong giới bụi đời thường kháo câu “khứa lão đa địa” có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là “xù”, “xù tình”, tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là “bắt địa”, ăn cắp là “chôm chỉa”, tương tự như “nhám tay” hay “cầm nhầm” những thứ không phải của mình.

Cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng “hia mão”, có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi “kép chầu”, có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được phân vai diễn gánh hát, đêm đêm họ cũng xách vali trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì kép chầu thay thế vào ngay. “Kép chầu” phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.

Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là “đào thương”, kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là “kép độc”. Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là “café à la... ghi” tức uống café thiếu ghi sổ...

Ông Nguyễn Văn Khang, Viện Ngôn Ngữ Học năm 2001 xuất bản Tiếng Lóng Việt Nam khoảng 250 trang (khoảng 40 trang nói về tiếng lóng và phần sau là Tự Điển Tiếng Lóng) sau nầy bổ túc thêm nhiều lần… Tôi không có quyển sách nầy nên không thể góp ý.

Trong xã hội hiện đại, tiếng lóng phát triển mạnh ở giới trẻ và hiện tượng này xảy ra ở tất cả các nước, chứ không riêng gì Việt Nam. Như ở Mỹ, người ta gọi tiếng lóng là ngôn ngữ đường phố, ngôn ngữ của giới trẻ và có người còn đùa rằng, ai muốn trẻ lại thì nói thật nhiều tiếng lóng. Điều đáng nói là việc sử dụng tiếng lóng trong giao tiếp đã trở thành một hiện tượng, một xu thế phổ biến của giới trẻ nói chung và học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường nói. Nhiều bạn trẻ hiện nay quan niệm rằng, phải nói như thế mới hợp thời, mới đúng mốt. Dần dần, cách nói này được nhiều người sử dụng một cách tùy tiện, nhất là trong giờ ra chơi, đi ngoài đường, ngồi nói chuyện ở hành lang hay cả trong giao tiếp với người lớn tuổi. Nhiều học sinh còn vô tình đưa tiếng lóng vào cả bài kiểm tra của mình.

Các nhà ngôn ngữ học cho rằng, nếu sử dụng tiếng lóng một cách tùy tiện sẽ dẫn đến hậu quả lớn. Một mặt, nó làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Mặt khác, môi trường xã hội và ứng xử giữa giữa học sinh với học sinh, học sinh với người ngoài xã hội sẽ bị pha tạp. Thực tế cho thấy, việc lạm dụng tiếng lóng trong một thời gian dài có thể khiến cho học sinh quên đi cách sử dụng từ ngữ theo đúng chuẩn mực, gây trở ngại trong quá trình giao tiếp với những người không cùng thế hệ. Xa hơn, thường xuyên sử dụng ngôn ngữ này một cách bừa bãi cũng sẽ ít nhiều ảnh hưởng tới tính cách mỗi người như tùy tiện, hời hợt, cẩu thả... (trích bài viết của nhà thơ Cao Thoại Châu về quyển sách nầy ở phần sau).

Theo ông TS Hoàng Anh, trước hết, cần giáo dục học sinh về những nguyên tắc, vai trò của việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Trong cuộc sống hằng ngày, nhà trường cần phối hợp với gia đình nhắc nhở, điều chỉnh khi giới trẻ lạm dụng thứ ngôn ngữ này.

Sổ Tay Từ-Ngữ Lóng Tiếng Việt của Đoàn Từ Huyên và Lê Thị Yến ấn hành năm 2008.

Theo lời tác giả: “ Chúng tôi chưa dám gọi đây là Từ Điển trước hết vì những người biên soạn không phải là những nhà ngôn ngữ học nên không giải quyết được vấn đề lý thuyết cơ bản… Chúng tôi không hoàn toàn căn cứ theo những định nghĩa tiếng lóng đã có trong các sách nghiên cứu tiếng Việt; chúng có khá nhiều nhưng cũng chưa hoàn toàn thống nhất và có chỗ không còn hợp với thực tế phát triển của ngôn ngữ hiện đại…” Và, dẫn chứng những đặc điểm, liệt kê tiếng lóng theo mẫu tự alphabet (A-Z)…

Khi vào ChatGPT tìm hiểu thêm về tiếng lóng cũng không có gì mới và cho biết những chữ sử dụng cụ thể.

Tiếng lóng là những từ ngữ, cụm từ (nhóm chữ) đặc biệt được một nhóm người sử dụng trong hoàn cảnh không chính thức, thường mang ý nghĩa khác với nghĩa thông thường. Tiếng lóng có thể phản ánh đặc điểm văn hóa, nghề nghiệp, tuổi tác, khu vực địa lý, hoặc giới tính của người dùng.

Tiếng lóng là ngôn ngữ không chính thức, dùng trong giao tiếp hàng ngày giữa những người thân quen hoặc trong nhóm cộng đồng nhất định (ngoài nhóm có thể không hiểu hoặc hiểu sai ý nghĩa), để diễn đạt một cách hài hước, bí mật, nhanh gọn, hoặc mang tính ẩn dụ, đôi khi có sắc thái giễu cợt hoặc phản kháng.

Không chính thống: Không được dạy trong trường học hay ghi trong từ điển học thuật.
Theo nhóm xã hội: giới trẻ, học sinh, giang hồ, nghệ sĩ... Theo vùng miền: Bắc, Trung, Nam hoặc tỉnh thành.
Khi hỏi về tiếng lóng trong lãnh vực văn học xưa và nay, chỉ dẫn chứng khái quát:

Tự Lực Văn Đoàn (truyện của Khái Hưng, Hoàng Đạo…) Dùng tiếng lóng nhẹ nhàng mang chất tiểu tư sản Hà Nội: Tây hóa, kẹo kéo, sành điệu, cưa gái, kẹt xì...

Người Không Mang Họ của Hồ Biểu Chánh, một số bản in lại dùng tiếng lóng miền Nam pha giang hồ: xộ khám, bà chằng, bẻ cò, nghía… Bẻ cò: bóp cò súng, ẩn dụ cho tay súng, tội phạm có vũ khí. Hắn là tay bẻ cò có số má trong giới. Đụng chuyện là xả hàng không nương tay. Tôi Là Lính của Hồ Hữu Tường (phóng sự đăng trên nhật báo Sài Gòn năm 1969) Tao là lính ‘tà lọt’ thượng sĩ, lương ba cọc ba đồng, mà ngày nào cũng bị thằng thiếu úy chửi ‘đồ rề rề’. Tà lọt: lính sai vặt cho sĩ quan. Ba cọc ba đồng: lương ít ỏi, nghèo. Rề rề: chậm chạp, ì ạch.

Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng: đi dzui, cúp cua, đi ké, ghét ghê, tám chuyện.

Thư Ở Trại Tù Phan Đăng Lưu của Duyên Anh: đâm xóc, làm hàng, đi trại, bóc lịch, tháo xích...

Hạ Sĩ Quan Truyền Tin của Phan Nhật Nam: dzọt lẹ, mót gạo, chết mịa, cà chớn, xì-tin (kích động)... Mặt Trận Không Tuyến của Phan Nhật Nam: Đám lính tụi tôi vừa hành quân về, thằng nào cũng đói như heo đói bảy ngày, chờ phát C ration mà dài cổ. Thằng Tư xì khói: ‘Tụi mình mà không dzọt lẹ, lát nữa ăn pháo thì thành banh xác cá nục! C ration: lương khô Mỹ (combat ration). Dzọt lẹ: rút lui nhanh, chạy lẹ. Ăn pháo: trúng pháo kích. Banh xác cá nục: chết tan xác (ẩn dụ, hài hước rùng rợn).


Sống & Chết Ở Sa Huỳnh của Trần Hoài Thư Tụi này đi hành quân, tụi nó đồn là vùng ‘răng cưa’. Mà răng cưa là nóng bỏ mẹ, đi đêm không rút êm là dính chấu liền!. Vùng răng cưa: khu vực bị tranh chấp ác liệt. Nóng bỏ mẹ: nguy hiểm cao độ. Rút êm: rút lui an toàn. Dính chấu: trúng đạn, bị thương hoặc tử trận. Trong vài bài thơ của Trần Hoài Thư cũng dùng tiếng lóng trong ngôn ngữ nhà binh. Tác giả có chú thích tiếng lóng.

“Súng đưa khỏi đầu
Từng con * một vượt sông”
Chú thích: * “Con”, tiếng lóng nhà binh chỉ người lính.
“Báo cáo trong tiếng mất tiếng còn
Về những thằng bị kiến cắn * ngủ yên”
Chú thích: * Bị “kiến cắn”: Tử trận

Tiếng lóng lính VNCH phổ biến như Bốc mùi: Chết, xác bắt đầu thối. Xoáy đồ: Lấy trộm, ăn cắp vật tư quân đội. Hành quân răng cưa: Đánh vào vùng tranh chấp nguy hiểm. Dzọt lẹ: Rút lui nhanh, rút quân. Ăn chấu: Trúng đạn. Lính kiểng: Lính văn phòng, không tác chiến. Gãy cánh: phi cơ rớt trong lúc lâm trận… Trong lúc hành quân, các đơn vị thường dùng tiếng lóng làm đặt hiệu truyền tin liên lạc như mật mã để bảo vệ danh tánh, đơn vị, cấp chỉ huy, đơn vị bạn và trong đơn vị… Chẳng hạn Bạch Long (Đại Tướng Đỗ Cao Trí), Lê Lợi (Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng)… Ngoài ra còn sử dụng 9 con số cho các đơn vị.

Tiếng lóng khác với phương ngữ (Quyển Tự Điển Tiếng Huế của Bùi Minh Đức, ông là bác sĩ, định cư ở Mỹ, có công sưu tầm rất công phu). Ví dụ: bồ (người yêu), cày (làm việc cực), tạch (rớt), ngoắc (gọi - miền Nam), khoai (củ sắn - miền Bắc).

Mười Năm Yêu Em của Nhã Ca: Anh là dân đi cà phê ngồi mốc meo cả buổi, hút thuốc ‘gô’ mà làm như triết gia!. Đi cà phê: lối sống thị dân, nhàn rỗi. Mốc meo: ngồi lâu, không làm gì. Thuốc gô: thuốc rê, rẻ tiền - chơi sang giả dạng.

Nhà văn Võ Hương An trong bài Tiếng Huế, Một Ngoại Ngữ?. Ông dẫn chứng Người bạn đời gốc Bắc (nhà văn Thanh Nam) của nữ sĩ Túy Hồng có lần đã phát biểu cảm nghĩ về tiếng Huế như sau:

Người Huế nói chuyện với nhau bằng ngoại ngữ Huế, người Nam người Bắc đứng ở ngoài nghe, không làm sao chen vào được một câu…

Mới nghe qua tưởng như đùa, nhưng đem đối chiếu với kinh nghiệm thực tế qua giao tiếp thì quả ý kiến ấy không phải là không có lý, tuy hơi cường điệu một chút. Ai người Huế trên bước đường tha hương lại không hơn một lần gây bối rối cho người đồng hương khác xứ khi đối thoại với rặt giọng sông Hương?

Bựa qua: hôm qua. Lôi giau: lôi nhau. Ngầy lộn: gây gổ. Chờn: cái giường. Trữa cươi: giữa sân. Bể mỏ: vỡ mồm, giập miệng.  U trốt: u đầu…. Chữ bựa còn có ý là phịa như Nó bựa quá… Thường kèm với nickname như XYV bựa cũng như những kẻ nổ sảng như XYV Long Bình (kho đạn lớn nhất của Mỹ ở Long Bình thời chiến tranh Việt Nam).

Với chữ tám rất thông dụng của dân miền Nam. Trong ca khúc Sức Mấy Mà Buồn của Phạm Duy: Sức mấy mà buồn, buồn ơi bỏ đi Tám. Sức mấy mà buồn, buồn ơi là hết buồn….

Chữ Tám trong tiếng lóng có nghĩa là nói chuyện, tám chuyện, tám nhảm, tán gẫu, lắm chuyện… Bà tám, ông tám là nhân vật ẩn dụ tượng trưng cho người thích nói nhiều nhưng thường dùng cho phái nữ nhiều hơn. Bỏ đi tám tức là đừng nói chuyện linh tinh nữa, đừng lan man, hoặc ngừng cãi vã, tranh luận không cần thiết…

Bài viết Một Ít Tiếng Lóng Sài Gòn của nhà thơ Cao Thoại Châu, anh là nhà giáo, động viên vào Khóa 24 ở Trường Bộ Binh Thủ Đức và cùng ở trong Ban Biên Tập liên khóa 23 & 23 của nguyệt san BB Thủ Đức.

Anh đề cập trong quyển Tiếng Lóng Việt Nam Nguyễn Văn Khang: Tiếng lóng vốn xuất hiện từ lâu và khá phổ biến, có sức lan tỏa rất nhanh vì là ngôn ngữ chợ búa, vỉa hè, nói ít hiểu liền bất cần ngữ pháp! Có lẽ chỉ các bậc tu hành mới không có (chứ không phải không dùng) tiếng lóng chuyên dùng. Thoạt kỳ thủy đó là tiếng của một giới nào đó (ăn chơi, mánh mung, lính tráng…), là con đẻ của một ngoại cảnh nào đó, không phải tiếng lòng, tức không phải của nội tâm, càng không là ngôn ngữ của tư duy.

Ở đâu cũng có tiếng lóng nhưng Sài Gòn là đất trẻ, nhiều dân tứ xứ là địa bàn quý hiếm cho tiếng lóng sinh sôi. Bắc Trung Nam, Tây Tầu Ấn, chỉ có Nga là chưa thấy… Thành phố đầu mối công thương nghiệp tạo thành lớp cư dân hoạt bát, nhiều sắc thái, nhiều người cá tính hơi bốc, trọng nghĩa khí mang tính giang hồ, thích sống thoáng, khoát hoạt. Sài Gòn còn là đất cảng nên hơn nhiều nơi khác, sức ma sát ở đây rất mạnh, càng mạnh càng bén nhạy trở thành đắc địa của tiếng lóng…một thứ phương ngữ độc đáo của Sài Gòn.

Nhớ hồi 1956-1957 gì đó, có cô ca sĩ nổi tiếng một lần đi chơi với bạn trai… tới Nhà Bè, hồi ấy còn rất hoang vắng. Hai người làm gì trong xe hơi chẳng biết nhưng bất ngờ bị tuần cảnh xét hỏi, bèn nói em với ảnh đi… ăn chè. Ối trời, tại Nhà Bè thuở đó mua cả chỉ vàng cũng không có thứ gọi là chè ấy. Thế là trong từ điển tiếng lóng, ăn chè ra đời, dùng làm gì thì cứ thử ắt biết.

Sang tới giới công chức, quân nhân thời xưa, không có lệ họp bình bầu kiểm điểm, anh nào từ phòng sếp ra mặt hơi bị không vui thì biết anh ta được mời lên uống trà, hoặc… uống cà phê đen! Nếu thấy anh ta mệt mỏi hãy thông cảm vì trong phòng sếp anh đã phải làm đèn cầy (đứng ngay đơ) cho sếp xát xà bông.

Tiếng lóng sinh ra rất nhanh từ một giới nào đó và đời tiếng lóng cũng ngắn. Khi lính Mỹ ào ạt sang miền Nam, chập choạng tối là những cây than (Mỹ đen) hay lảng vảng ở các khu vực bến xe hay những khu bình dân. Đám dắt mối, ăn xin, du thủ du thực chế ngay ra OK Salem, tức tiếng bồi cộng với ngôn ngữ hình thể, nói bằng miệng thì ít mà bằng tay thì nhiều làm ngôn ngữ tiếp thị món gà móng đỏ.

Ngày nay việc dùng cái bao cao su được tuyên truyền rộng rãi trên pa nô, báo đài và còn có cả việc các thanh niên đi phát nó trong các cộng đồng. Cái vật này thời trước ở Sài Gòn thường chỉ được hiểu rộng rãi là phương tiện ngừa bệnh của dân ăn chơi, họ gọi là áo mưa, chắc là lấy từ chữ capote của tiếng Pháp. Đang khi ấy, một vị tân đại sứ tại Sài Gòn có tên là… Cabot Lodge, thế là trong từ điển tiếng lóng của chốn ăn chơi có ngay Ông đại sứ mà ngay cả những má ít học nhất cũng sẵn sàng cung cấp mỗi khi khách có yêu cầu!

Ra chợ Bến Thành, những chú lính Yankee đụng ngay đám ăn xin lóc nhóc, một chữ Việt bẻ đôi cũng không biết nhưng tiếng Anh bồi, phương tiện hành nghề thì đám này xài nhanh như gió, kiểu nô bà ba, nô mà ma, ghi vờ mi, oăn đồ la, có nghĩa là không cha không mẹ, cho tôi một đồng!. Tuy loại ngôn ngữ này không hề có trong bất cứ thứ từ điển nào nhưng than nghe là hiểu, không chết liền!

Thời Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống, tiếng lóng tông tông dành riêng cho ông ta, người đứng đầu Phủ Đầu Rồng… Còn Quế tướng công là… đặc sản dành cho viên Tư Lệnh Sư Đoàn 2 ở Quảng Ngãi, lợi dụng mở cuộc hành quân… tìm quế cho tướng…

Người Sài Gòn sau nầy làm quen với những xế điếc (xe đạp), xế nổ (xe máy), đánh quả (phi vụ làm ăn), con phe (dân mánh), một vé (100 đô), bôi trơn (đút lót)... trong đó bôi trơn có tuổi thọ như ông Bành Tổ!

Ngày nay, có hai thứ không phải ngôn ngữ nhưng rất… biểu cảm: Cục gạch cắm miếng giấy (chỗ bán xăng lẻ) và cái phong bì, không biết có nên cho chúng vào từ điển tiếng lóng thông dụng hay không? Có một tiếng không biết có nên cho vào từ điển tiếng lóng hay không, chỉ biết hàng năm cứ đến mùa thi là nó xuất hiện trên các báo: Chọi, nghe rất bạo lực sứt đầu bể trán nhưng lại hiền khô là... thi tuyển vào đại học!

Tiếng lóng sinh nhanh mà già cỗi cũng nhanh cứ như hoa phù dung sớm nở tối tàn. Hoàn cảnh sống khác đi lập tức tiếng lóng bèn đi trước đón đầu thật nhanh cứ như hình với bóng. Chân dài không chỉ là cặp giò có số đo hơi bị nhiều, mà là đối tác của đại gia trong quan hệ bên tiền bên sắc. Biết chết liền là cách nói đa dạng trong mọi lãnh vực, phủ định cũng được mà khẳng định cũng không sao. Em đẹp không? Đẹp chết liền (phủ định, chọc), Không chết liền (khẳng định, nịnh) đều không gây mất lòng cũng không gây cho người đẹp yên tâm là mình đẹp, bởi nó mang tính cách đùa bỡn, sao cũng được! Bài này hay không?, Hay chết liền; Món này ngon chứ?, Ngon chết liền…”

(Cao Thoại Châu)

Nhắc đến tiếng lóng mà quên nhà văn quá cố Nguyên Hồng là một sự thất lễ. Trước năm 1945 (gọi cho sang trọng là thời tiền chiến), cụ đã lên đời loại tiếng vỉa hè này, đưa nó vào văn chương hẳn hoi. Tiểu thuyết Bỉ Vỏ - nội cái nhan đề đã là một tiếng lóng (chỉ người đàn bà móc túi) - của cụ đọc thật bá chấy (hết xẩy, khỏi chê)

Lần đầu tiên người đọc được nghe tiếng của giới giang hồ đất cảng Hải Phòng: Mõi (móc túi); kỳ bẽo (cờ bạc); sò quỷnh (người nhà quê); đông địa (nhiều tiền) v.v... Một dân móc túi thuộc loại trinh sát theo dõi một người nhà quê có vẻ có tiền, khi thấy ông ta vào quán cơm bụi, đã báo cho đàn anh biết một cách gần như công khai: Sò quỷnh đông địa tranh vòm (lão nhà quê có nhiều tiền đã vào quán)!

Trong khi chưa tìm ra ai khác nhà văn Nguyên Hồng, xin cứ tôn xưng cụ là… vua tiếng lóng, vì nhân vật của cụ nói được nguyên một câu bằng tiếng lóng, còn đám hậu sinh trong một câu chỉ đệm được vài từ là cùng.

Theo tác giả Phanxipang: Kỳ thực, tự điển còn góp nhặt hàng loạt tiếng lóng dùng trong trại giam ở miền Bắc thập niên 1960 thông qua tiểu thuyết Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn (Hà Nội, 2000) nhưng lại không chua nguồn thư tịch…

Có thể trưng thêm cả lô tiếng lóng bị Nguyễn Văn Khang giải thích thiếu sót, lắm phen nhầm lẫn tới mức… phi thực!..

Nhiều từ ngữ bị tự điển của Nguyễn Văn Khang ghi sai chính tả, điều khó chấp nhận đối với loại sách dùng để tra cứu. Ví như rụt dè (rè), sui (xui/rủi) thấy mồ. Nhiều tiếng lóng bị ghi không đúng hình thức ngữ âm. Chẳng hạn bá chảy (cháy/chấy), chè nghim (ghim), đam (đâm) chuột. Từ chè ghim xuất hiện bởi nói lái chìm ghe. Từ đâm chuột được diễn dịch đâm tí rồi nói lái chệch thành đi tắm. Do thiếu tìm tòi về từ nguyên, đặc biệt là những tiếng lóng có nguồn gốc ngoại ngữ hoặc được cấu tạo bởi phương thức nói lái, nên Nguyễn Văn Khang chưa giải thích đúng, đủ, đảm bảo sức thuyết phục. Đó là loạt từ đai, mo, xuya, bứt cỏ, chà đồ nhôm, hạ cờ tây, v.v.

Trong Việt ngữ hiện đại, tiếng lóng ngày càng có xu hướng phát triển mạnh, nhất là với giới trẻ ở các đô thị. Điều đó tạo hiện tượng được các nhà nghiên cứu đặt tên là ngôn ngữ đường phố (street languages). Hiểu biết và vận dụng tiếng lóng đạt mức độ cần thiết có thể tạo nên những tác phẩm văn chương lẫn báo chí giá trị, hấp dẫn. Jacques Prévert (1900-1977) ở Pháp là minh chứng sinh động: thơ của ông đầy rẫy tiếng lóng, có tập được xuất bản tới hàng triệu cuốn. Giữa thời nguyên tử, cú bùng nổ thi ca vô tiền khoáng hậu ấy khiến thiên hạ suy nghĩ quanh câu hỏi: tiếng lóng thu hút đông đảo bạn đọc vậy ư? Với việc dịch thuật, gặp những văn bản nhất định, cũng rất cần tiếng lóng. Tiểu thuyết The Godfather - Bố Già lừng danh của nhà văn Mỹ gốc Ý Mario Puzo (1920-1999) đã được nhiều người dịch sang tiếng Việt, song bản chuyển ngữ của Ngọc Thứ Lang trước năm 1975 ở Sài Gòn thành công nhất nhờ tìm được chuỗi tiếng lóng Mỹ - Việt tương ứng…

Văn hào Pháp Victor Hugo (1802-1885) từng chú ý sử dụng tiếng lóng trong tác phẩm Le Dernier Jour d'un Condamné - Ngày Cuối Cùng Của Một Tử Tù (1828), thậm chí còn dành hẳn cả quyển VII trong phần thứ tư của bộ tiểu thuyết đồ sộ nổi tiếng Les Misérables - Những Người Khốn Khổ (1861) để bàn luận về tiếng lóng.

Victor Hugo nhận định: Tiếng lóng là gì? Nó là quốc gia, đồng thời là quốc âm; đó là một đánh cắp dưới hai hình thức: nhân dân và ngôn ngữ. (...) Tiếng lóng vừa là một hiện tượng văn học, vừa là một kết quả xã hội. Tiếng lóng, căn bản, là gì? Tiếng lóng là ngôn ngữ của khốn cùng. (...) Mọi nghề, mọi nghiệp, có thể mọi ngẫu nhiên của hệ thống xã hội và hết thảy các hình thức của trí tuệ, đều có tiếng lóng của nó. Về phương diện thuần túy văn học, nghiên cứu tiếng lóng có thể là kỳ thú hơn nhiều khoa học khác. (Bản dịch của Huỳnh Lý, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu).

Tự Điển Việt Nam của Ban Tu Thư Khai Trí (Sài Gòn, 1971) giải thích: Thứ tiếng dùng riêng với nhau trong một bọn, một hạng người cùng nghề. Từ Điển Le Petit Larousse Illustré (Paris, 1993) viết: Từ vựng riêng biệt của một nhóm, một nghề, hoặc một giai tầng xã hội. Advanced learner's English dictionary (London, 1993) nêu: Các từ, cụm từ rất thân mật, không nghi thức, thường dùng trong lời nói, nhất là những người cùng một nhóm xã hội, làm việc cùng nhau và không được xem là thích hợp cho những bối cảnh nghi thức, cũng như chẳng thể sử dụng lâu dài.

Một thực tế nữa: chưa hẳn tiếng lóng chỉ thuộc bọn người xấu, càng không thể là ngôn ngữ dưới đáy xã hội. Tùy quan niệm rộng hẹp mà có những cách nhìn nhận khác nhau về tiếng lóng đối với công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt hiện nay.

Từ đầu thế kỷ XX, tiếng lóng Việt Nam đã được bao học giả trong lẫn ngoài nước chú ý nghiên cứu.

Một trong những công trình đầu tiên là của Jean Nicolas Arthur Chéon (1856 - 1928), mang tiêu đề L'argot Annamite - Tiếng Lóng Việt Nam đăng trên BEFEO (Bulletin de l'Ecole Française d'Extrême-Orient: tập san trường Viễn Đông Bác Cổ) năm 1905. Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (1889-1947) từng có khảo luận L'argot Annamite de Hanoï - Tiếng Lóng Việt Nam ở Hà Nội công bố năm 1925. Nhiều chuyên gia Việt ngữ học thời gian qua cũng dành công sức nghiền ngẫm tiếng lóng…

Tôi không có cuốn Tự Điển Tiếng Lóng nầy để phân tích, trích dẫn nhưng với cả cuốn tự điển về tiếng lóng sẽ có nhiều vô số.

Vào thời tiền chiến, tiếng lóng được sử dụng phổ thông qua các tác phẩm phóng sự vì liên quan đến cuộc sống.

Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) với tác phẩm Cạm Bẫy Người (1933), tiếng lóng trong cờ bạc bịp: mòng, mẻng, bắt, viên đạn, hòn đạn, của, lộ tẩy, cản, quých, v.v. các tác phẩm Kỹ Nghệ Lấy Tây (1934), Số Đỏ (1936), Làm Đĩ (1936), Lục Xì (1937) tiếng lóng ẩn ngữ giang hồ: chạy làng, chánh, chúa, hoa đào, ngày phiên, trô, xé giấy, v.v.

Lục Xì phát âm hai từ tiếng Anh “look, see”. Nhà Lục Xì là cơ quan y tế chuyên chữa bệnh hoa liễu cho phụ nữ làm đĩ. Trong quyển nầy tác giả chú thích những chữ khó hiểu, trong đó có tiếng lóng.

Tác phẩm Bỉ Vỏ ((bỉ: đàn bà, con gái; vỏ: ăn cắp), tác phẩm đầu tay năm 1937 của nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982) dùng nhiều tiếng lóng trong giới lưu manh trộm cắp. Vỏ lỏi: ăn cắp còn nhỏ tuổi. Chạy vỏ: ăn cắp (chỉ chung những ăn cắp đường, ăn cắp chợ). Chạy dọc: ăn cắp trên tàu thủy, tàu hỏa, ô tô. Cớm: tiếng chỉ chung mật thám và đội xếp. Bướu: tiền. Bồi: tiền ăn cắp của bọn ăn cắp trích nộp đàn anh. Đét: không ăn cắp được, túng bấn. Trùng bướu: ăn cắp được nhiều tiền. Hiếc: lần lưng móc túi. Siên: lấy đi. Loại tươi: lấy ngay. Dựa nhẩu: lấy nhanh. Mõi: móc, rút...

Câu được vần vè khiến bạn đọc dễ nhớ: Không vòm, không sộp, không te. Niễng mũn không có, ai mê nỗi gì?. Vòm là nhà. Sộp là giàu sang, hào phóng. Te là xinh đẹp. Niễng mũn là một trinh nhỏ, tức nửa xu.

Chẳng hạn, trước đây trong Nam có chữ kênh xì bo hàm chỉ cái nhìn ai đó có ý gây sự, hách cái mặt, khiêu khích. Xì-po là vay mượn tiếng Pháp sport. Nhà thơ Tú Mỡ viết: Bạn gái ngày xưa thích xịch bo. Ngoài ra, nói ngược là xì po là bo xì tỏ thái độ ăn miếng trả miếng, không chần chừ “Mầy liệu hồn bị bo xì”.

Năm 1932, nhà báo Tam Lang viết thiên phóng sự Tôi Kéo Xe cho đăng trên Hà Thành Ngọ Báo và Mai Lĩnh ấn hành năm 1935.  Theo lời tác giả: Viết những trang ký sự này, chúng tôi không có ý khen hoặc chỉ trích ai, mục đích chỉ muốn phác họa một bức tranh tả cái cảnh sinh hoạt khổ sờ của một hạng người trong xã hội

Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan trong bộ sách Nhà Văn Hiện Đại nhận xét: Không có lối văn nào giúp ích cho việc cải cách, cho nhà đương chức, nhà pháp luật và nhà xã hội học bằng các thiên phóng sự.

Những tiếng lóng thông dụng như: gà chết; gà nuốt dây thun; mừng hết lớn; quá cỡ thợ mộc (hết cỡ, vượt ra ngoài khuôn khổ); mút mùa Lệ Thủy (chỉ thời gian xa thăm thẳm); xưa rồi Diễm (chuyện đó cũ xì, cũ mốc rồi); mát trời ông Địa (chỉ trạng thái hài lòng, hả hê sung sướng); hết sảy (chắc như bắp rang, không trật vào đâu nữa); đi bốn vùng chiến thuật (đi khắp nới khắp chốn, từ đồng bằng, hải đảo đến cao nguyên), đi vùng 5 (đi về âm phủ); xi cà que (người bị tật ở chân, hàng kém chất lượng); nâng bi (nịnh bợ); xôi cồ (ngực to); lặn (đi trốn); địa (bị theo dõi); con ghệ (con gái); cớm (cảnh sát); cớm chìm (công an mặc thường phục); sơ-mi gỗ (quan tài); vãn tuồng (kết thúc); tận cùng bằng số (bắt chước theo cách báo tin kết quả xổ số kiến thiết, qua đài phát thanh); thanh minh thanh nga (giãi bày, phân trần chuyện oan ức); đổng (đồng hồ); lấy le (phô trương, tỏ ra là người quan trọng); làm tàng (ỷ mình hơn người mặt nào đó thì coi thường họ); hầm bà lằng, búa xua, tá lả (lộn xộn); xế (xe); xế điếc (xe đạp); xế độ (xe máy lên đời), xế hộp (xe hơi); bá chấy bò chét (hết sảy, tuyệt); chị em ta (gái mại dâm); bề hội đồng (hiếp dâm tập thể); lết bánh (xỉn quắc cần câu); chơi líp ba ga (chơi tới bến, chơi xả láng sáng về sớm); chơi cho đáng mặt bầu cua cá cọp (chơi đàng hoàng, chơi ra chơi, không ba que xỏ lá); dân chơi Cầu Ba Cẳng (dám làm mà không dám chịu); xệ, quê xệ (ẹ quá, tệ quá); quê độ (quê quá xá là quê); chó lửa (súng lục); leo cây (chờ đợi theo lời hứa nhưng người đó xù luôn, không đến); đô (bự con); 35 dê (chỉ người có máu dê xồm); cùi (chuyện đó không thể xảy ra); mới cáu cạnh, mới cáo xèng (mới 100%); đổng (đồng hồ đeo tay); xí xọn, xí xa xí xọn (làm bộ, làm điệu) sau nầy thông dụng với tiếng chảnh và “phượt” đi chơi nơi nầy nơi nọ như bụi đời với ba lô, xe gắn máy…
Xì trum (nhân vật Xì Trum qua các truyện tranh của Peyo và Thierry Culliford - con trai Peyo - sáng tác). Xì Trum (tiếng Pháp: Les Schtroumpfs, tiếng Anh: The Smurfs) tên một chủng tộc tí hon do họa sĩ Peyo hư cấu, xuất hiện lần đầu trong truyện Johan et Pirlouit và trở thành tên loạt truyện tranh độc lập bắt đầu phát hành vào năm 1958 và sau đó có hoạt hình, phim ảnh nên rất thông dụng. Chữ xì trum đã sử dụng cho nhiều trường hợp, Theo Kiwipedia: Chữ xì trum thay thế cho nhiều động từ (“Cậu phải nghe tất cả những gì Tí xì trum” nghĩa là “Cậu phải nghe tất cả những gì Tí dặn dò). Cho nhiều tính từ, thán từ (Tí than thở “Thật xì trum!” tức “Thật khó khăn!”), Thậm chí cả danh từ (Tí nói “Là xì trum cuối cùng của chúng ta rồi” nghĩa là “Là giải pháp cuối cùng của chúng ta rồi”).

Đôi khi chữ xì trum gọi nhân vật có ý mỉa mai. “Ổng được gọi là Xì Trum Nhạc Sĩ” hay “Schtroumpf Musicien” là nhạc công tệ nhất. Ổng chơi nhạc tệ đến nỗi bất kỳ nhạc cụ nào ổng cố gắng chơi cũng đều nghe chói tai, nghe đến nổi điên đầu… Sau nầy giới trẻ sử dụng loạn xà ngầu, chẳng hiểu gì cả!
Nào là bọn trộm cắp (foot-pads), ăn mày (beggars), dân lang thang (gypsies - tầng lớp hạ lưu như dân gypsy), bọn lường gạt (cheats), bọn đào ngạch, khoét vách, bẻ khóa (house-breakers), phu bốc vác (shop-lifters), bọn cướp đường (highway-men), bóng bàn (ping pong), cà vạt (cravate) hay gọi là khô mực; ngoài ra còn có ý dung tục…

Trong tám thập niên nước ta trong thời Pháp thuộc nên rất nhiều tiếng Pháp được phiên âm sang tiếng Việt, trong đó có nhiều chữ trở thành tiếng lóng thông dụng, nhất là các tác phẩm phóng sự với môi trường xã hội thời đó.

Cách nay đúng hai thập niên, tôi viết bài Nguyễn Thị Thụy Vũ, Giữa Dòng Đời Nghiệt Ngã, đề cập đến các tác phẩm của bà. Bà dạy tiếng Anh cho me Mỹ đề cập đến “giới chị em ta” buôn hương bán phấn với tiếng Mỹ bồi các chàng GI. Vì tiếp xúc với giới nầy nên bà viết rất bạo. Ví dụ như No star where! (Không sao đâu!) Go boom boom (Quan hệ tình dục)…

Bà viết rất “bạo”, cảnh ái ân được mô tả như “làm đùng đùng như cù dậy” hoặc “làm đùng đùng như con cá sấu đập đuôi bánh lái ghe chài”. “Mầy là con đĩ ăn cám uống hèm nên ngu si đần độn”. “Mày ngựa quá mà. Bây giờ nó tính sao với mày đây?”. “Nó hùng hục như con trâu đực”. “Mày là đồ uống máu dơ...”. “Làm tình với cột nhà cháy”. “Sau cái chết của ông Tư chăn dê, bà dan díu với ông Năm Còm bạn chè chén của ông Tư”.

Điển hình như tập truyện Mèo Đêm, trong truyện Mèo Đêm, bà viết về “ái ăn sương” trẻ, già sống sượng “thả mồi bắt bóng” vời GI Mỹ quan hệ tình dục… Tác phẩm rất ăn khách nên mèo đêm trở thành tiếng lóng. Với ngôn ngữ trần trịu của bà khi mô tả hành động làm tình trắng trợn nên bị các nhà mô phạm lên án, vô tình gợi sự tò mò của độc giả nên một số tác phẩm của bà “ăn nên làm ra” của cô giáo viết văn.

Với tiếng lóng trong giới anh chị bụi đời, giang hồ ở Sài Gòn thuở đó với nhà văn Duyên Anh (1935-1997) và Nguyễn Thụy Long (1938-2009) vào thập niên 1960’ & 1970’.

Duyên Anh như Điệu Ru Nước Mắt, Vết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa Hoang... Với Nguyễn Thụy Long như Bước Giang Hồ, Tay Anh Chị, Loan Mắt Nhung, Gái Thời Loạn (1969), Nữ Chúa, Xóm Cô Hồn, Nợ Máu… Với giới giang hồ, bụi đời luôn sử dụng nhiều tiếng lóng nên hai nhà văn nầy chịu khó tìm hiểu để viết mới sinh động.

Tiếng Lóng Xưa & Nay ở nước ta đã thay đổi rất nhiều qua từng giai đoạn và hoàn cảnh xã hội, nhờ được phổ biến trong các tác phẩm và bài viết nên được phổ biến và lưu truyền. Tốt hay xấu, hữu dụng hay vô bổ… tùy theo quan điểm mỗi người và cần loại bỏ bớt, lạm dụng bừa bãi, tối nghĩa để duy trì trong ngôn ngữ cuộc sống.

Little Saigon, July 2025
Vương Trùng Dương
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thường gặp phải bao chuyện xảy ra họa (rủi ro) và phúc (may mắn). Khi có người bị họa thì lấy thành ngữ “Tái ông thất mã” nghĩa Hán Việt: Tái là “cửa ải”, Ông là “ông lão, ông già”, Tái ông là “ông già sống gần biên ải” ám chỉ khi người gặp họa trước thì may mắn được phúc sau. Thông thường thì thành ngữ nầy chí với tự bản thân để an ủi. Trong Tự Điển Hán Nôm thì phúc và phước viết giống nhau. Theo cách gọi miền Bắc là phúc, Trung và Nam là phước. Với phước, họa thì khôn lường được. Câu nói Lưu Hướng trong Thuyết Uyển “Phúc bất trùng chí, họa tất trùng lai”, phúc chỉ may mắn một lần, họa thì liên miên. Hay “Phúc vô song chí, họa bất đơn hành”.
“Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: Khi không có người chỉ huy, kẻ xấu làm bậy. “Gà tức nhau vì tiếng gáy”: Tính ganh đua, đố kỵ, không chịu kém người khác. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”: Cậy thế ỷ lại, bắt nạt người khác. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”: Khuyên bản thân có bản lãnh thì ra ngoài xã hội, anh chị em trong nhà nên đoàn kết, gắn bó với nhau cùng nghĩa tương tự như “Gà nhà lại bới bếp nhà”: Chê cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau. “Gà què ăn quẩn cối xay”: Chê những người không có ý chí. “Học như gà đá vách”: Chê những người học kém. “Lép bép như gà mổ tép”: Chê người ngồi lê mách lẻo. “Lờ đờ như gà ban hôm”: Quáng gà, chê người chậm chạp, không hoạt bát
Câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Làm kẻ thù với Mỹ chỉ trực tiếp đối đầu còn làm bạn với Mỹ phải chấp nhận yêu sách, quyền lợi của Mỹ… nếu không sẽ bị “đá giò lái, đâm sau lưng” và có lúc bị bán đứng đất nước!
Tuổi 18 có thực sự là ngưỡng cửa của trưởng thành? Không ai lớn lên giống ai, và hành trình trưởng thành cũng chẳng thể đo đếm bằng một con số. Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với cột mốc 18 tuổi – độ tuổi mà luật pháp nhiều nơi, bao gồm Hoa Kỳ, công nhận một cá nhân chính thức bước vào tuổi trưởng thành và phải chịu trách nhiệm hình sự như người lớn. Thế nhưng, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó.
Tình hình thế giới hình như đang rối lung tung, náo loạn như từ khi tổng thống Mỹ nhậm chức nhiệm kỳ II. Ông ở ngôi mới được hơn 100 ngày chút xíu, mà nhiều rắc rối quá, đối ngoại thì như mỗi ngày ông đưa ra những quyết định trừng phạt thế giới về kinh tế và thương mại bằng cách tăng thuế vào các hàng hóa của bất kỳ quốc gia nào nhập khẩu và Hoa Kỳ từ 10 đế 50% và hơn thế nữa.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.