Wabi-sabi:
Vào một buổi chiều tuyết trắng rơi ngoài hiên, ngồi một mình, chợt nhớ đến một câu thơ mà tôi đã đọc được cách đây lâu lắm rồi. Tuy đã quên tên tác giả, nhưng tôi vẫn nhớ mãi câu thơ vì ý thơ rất hay, nó gây ấn tượng trong tôi rất lâu:
„Đời đang tìm những khiếm khuyết để yêu nhau“.
Cuộc sống này không có ai là hoàn hảo mà cũng không có cái gì là hoàn toàn, tất cả mọi sự vật trên đời này đều có khiếm khuyết và không vĩnh cửu. Chính vì thế nếu ai cố gắng đi tìm sự tuyệt đối, họ sẽ thất vọng. Câu thơ trên muốn nói lên ý tưởng, hãy chấp nhận và trân trọng những khiếm khuyết của nhau để chúng ta tới gần nhau hơn, hiểu nhau hơn. Nhà khoa học nổi tiếng Stephen Hawking còn đi xa hơn nữa, ông khẳng định „Nếu không có sự không hoàn hảo, cả bạn và tôi đều không tồn tại” ("Without imperfection, neither you nor I would exist."). Ông muốn nói sự „không hoàn hảo“ của vũ trụ, những giao động đột biến trong quá trình tiến hóa, những sai lệch trong định luật vật lý đã là những điều kiện để tạo nên sự sống trong đó có con người.
Thời đại của chúng ta đang sống là thời đại của Internet, của điện thoại di động (mobile phone), của thực tế ảo (virtual reality), của trí tuệ nhân tạo (AI),… Tất cả những cái đó đã đưa đến sự đòi hỏi tối ưu hóa về kỹ thuật, tối đa hóa về xử lý những dữ kiện khổng lồ và cũng như tối đa hóa về vận tốc đã đẩy con người đi tới trạng thái luôn luôn bị áp lực, xa rời thực tế để đưa đến xu hướng phải đạt được sự hoàn hảo tuyệt đối, không tì vết trong cuộc sống cũng như trong công việc. Một hội chứng đã được nẩy sinh ra trong thời đại kỹ thuật số (digital age) mang tên „hội chứng hoàn hảo“, tên khoa học „hội chứng Atelophobia“, dành cho những con người theo chủ nghĩa hoàn hảo. Họ luôn luôn lo sợ bản thân làm không được, làm không đủ tốt, làm có thể bị chê bị trách. Nỗi sợ kém hoàn hảo, có khiếm khuyết làm họ lo lắng, hoảng sợ nhiều khi mất ăn mất ngủ rồi đâm ra bị trầm cảm.
Đi ngược lại những ám ảnh làm sao đạt được sự hoàn hảo tuyệt đối, triết lý Wabi-sabi đã xuất hiện ở Nhật Bản cách đây cả mấy trăm năm và đã ăn sâu vào tiềm thức người Nhật nhắc nhở chúng ta khiếm khuyết chỉ là một phần tự nhiên trong cuộc sống, chấp nhận điều không hoàn hảo để từ đó chúng ta có cuộc sống hạnh phúc hơn và nhẹ nhàng hơn. Wabi-sabi khuyến khích chúng ta nên buông bỏ, chấp nhận không phải mọi thứ đều hoàn hảo hay vĩnh cửu, hướng dẫn chúng ta trở về với chân thực, với những đơn sơ mộc mạc của thiên nhiên và xa rời những ảo giác không thực để hưởng cái tĩnh lặng của một buổi chiều sắp qua đi hay một buổi uống trà thanh tịnh và ngay cả trong một ngày trời âm u, mưa tầm tã, Wabi-sabi cũng hướng chúng ta tìm thấy được một nét đẹp nào đó trong lúc trời đất đang nổi cơn „gió bụi“.
Wabi-sabi là một khái niệm về thẩm mỹ và triết lý theo truyền thống của người Nhật tập trung vào vẻ đẹp của sự không hoàn hảo, không vĩnh cừu và không hoàn toàn đi từ giáo lý của đạo Phật là vô thường, khổ và vô ngã. Vô thường là một trong ba dấu ấn của Tam Pháp Ấn khẳng định mọi sự đều thay đổi, không vĩnh cửu theo quy trình của „thành, trụ, hoại, diệt“. Wabi-sabi tôn vinh vẻ đẹp thoáng qua không hoàn hảo như đóa hoa sắp tàn, một phiến đá phủ rêu xanh, một ly trà bị nứt. Wabi-sabi chấp nhận vẻ đẹp in dấu vết của thời gian, sự lão hóa của vạn vật, phản ảnh triết lý Vô thường. Khổ là chân lý thứ nhất trong Tứ diệu đế chỉ ra nguyên nhân của khổ đau là sự bám víu vào những thứ không trường tồn. Wabi-sabi khuyến khích nhận diện và chấp nhận điều không hoàn hảo như là một liều thuốc để hòa giải với khổ đau. Vô Ngã của đạo Phật dạy chúng sanh buông bỏ và không bám víu vào „cái tôi“, nguồn gốc của khổ đau. Wabi-sabi khuyến khích con người sống khiêm nhường, buông bỏ „cái tôi“, đề cao sự hòa đồng vào thiên nhiên.
Wabi-Sabi kết hợp từ hai từ Wabi và Sabi. Mỗi chữ mang một ý nghĩa riêng nhưng khi kết họp lại mang một ý nghĩa chung là không hoàn hảo, đơn giản và phù du. Lúc ban đầu Wabi mang ý nghĩa là cô đơn, u buồn có tính cách tiêu cực. Sau này khi tiếp xúc với Thiền của đạo Phật, Wabi được hiểu nghĩa tích cực hơn như đơn giản, khiêm nhường và chấp nhận mọi vật không hoàn hảo. Sabi có ý nghĩa vẻ đẹp của sự vật theo thời gian trở nên cũ kỹ, hao mòn một cách tự nhiên, Như một bức tường loang lổ rêu phong hay một thanh gỗ bạc màu theo ngày tháng. Nó không có tính tiêu cực mà là một sự chấp nhận và trân trọng vẻ đẹp tự nhiên, không hoàn hảo trong quá trình soi mòn của thời gian. Wabi-sabi bắt nguồn từ khoảng thế kỷ 12-16, thời kỳ mà đạo Phật xâm nhập và phát triển mạnh mẽ ở Nhật. Wabi-sabi không phải là một lý thuyết khô khan mà đúng hơn là phong cách người Nhật áp dụng nó vào đời sống hàng ngày, trong nghệ thuật, kiến trúc và cả quan niệm sống của họ.
Sau đây là 3 câu chuyện có dính dáng đến triết lý sống Wabi-sabi.
Câu chuyện về bức tường không hoàn hảo:
Cách đây đã lâu, tôi có dịp đọc được cuốn sách của thiền sư Ajahn Brahm bằng tiếng Đức „Die Kuh, die weinte“, nguyên bản bằng tiếng Anh „Opening the Door of Your Heart“. Ajahn Brahm là người Anh sinh ở London, năm 17 tuổi ông quy y theo Phật giáo và đã từng học ở đại học Cambridge về ngành vật lý học, ra trường đi dạy học ở trường trung học một thời gian ngắn. Năm 23 tuổi, Ajahn Brahm qua Thái Lan để xuất gia tại tu viện Wat Saket dưới sự hướng dẫn của thiền sư Ajahn Chah, thuộc hệ phái Nguyên Thủy. Ajahn Chah là một thiền sư danh tiếng và rất được tôn kính ở Thái Lan. Sau 9 năm tu tập, Ajahn Brahm được cử qua Úc để lập tu viện và hướng dẫn Phật tử ở đó. Trong sách, ông kể lại cái thủa ban đầu mới tới Úc, tu viện còn rất nghèo nàn, chưa có nhà cửa khang trang như bây giờ, nên tất cả các tăng ni, cả thầy lẫn trò, đều phải xắn quần xắn áo, bỏ chuông, gác mõ, xếp bồ đoàn tạm thời qua một bên. Người làm thợ hồ, người làm thợ mộc, người đi cuốc đất, tay xách xẻng, tay cầm sà beng đi xây tu viện. Ajahn Brahm được giao cho nhiệm vụ xây một bức tường, một công việc mà thiền sư chưa bao giờ làm. Nhưng vốn tính kiên nhẫn và chăm chỉ, sau một thời gian cố gắng vật lộn với gạch, cát và xi măng, ông đã hoàn tất công việc được giao phó. Ajahn Brahm vui mừng và hãnh diện đứng chiêm ngưỡng bức tường đầu tiên mà mình đã tự tay xây lên. Bất chợt ông khám phá ra 2 viên gạch nằm không ngay hàng, thẳng lối, hơi bị lệch ra ngoài. Ăn không ngon, ngủ không yên với hai viên gạch nằm sai chỗ. Hai viên gạch quái ác ấy đã trở thành nỗi ám ảnh của ông từ ngày này qua ngày khác. Đến nỗi ông không còn muốn nhìn bức tường đó nữa. Mỗi lần có khách tới thăm, ông đều tìm cách dẫn khách đi đường vòng để tránh gặp bức tường. Nhưng một hôm, có một vị khách quí tới thăm, vô tình đi qua và đã buộc miệng khen bức tường xây rất đẹp. Giật mình và ngạc nhiên Ajahn Brahm hỏi lại là khách có nhìn thấy 2 viên gạch nằm sai chỗ không? Vị khách mỉm cười, trả lời là chỉ nhìn thấy bức tường với 998 viên gạch được xây rất ngay hàng thẳng lối. Câu trả lời đã làm Ajahn Brahm tỉnh ngộ, thời gian qua vô tình ông đã bỏ mất quá nhiều thời gian để tập trung vào 2 viên gạch „không hoàn hảo“ mà quên đi 998 viên gạch còn lại được xây rất „hoàn hảo“. Từ đó cho đến về sau, Ajahn Brahm chỉ còn nhớ đến bức tường với 998 viên gạch xây rất đẹp mà ông đã bỏ công sức để dựng lên và với hai viên gạch còn lại, ông chấp nhận nó như một định luật trong cuộc sống „không có gì là tuyệt đối“ và cũng „không có gì là hoàn hảo“. Và cũng từ đó, thiền sư đã tìm lại sự bình an của mình.
Ajahn Brahm viết tiếp cũng như trong cuộc sống gia đình nếu chúng ta chỉ nhìn thấy, 2 viên gạch không hoàn hảo “ trong người vợ hay người chồng của mình mà quên đi “ 998 viên gạch còn lại được xây rất hoàn hảo“ thì hạnh phúc gia đình chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều và con đường dẫn đến chia tay chắc cũng không xa lắm. Cuộc sống này vốn vô thường, không có gì hoàn hảo mà chả có gì là hoàn toàn. Bởi chẳng có gì tồn tại mãi với thời gian, chẳng có gì hoàn toàn 100% và cũng chẳng có gì hoàn hảo mà không có khiếm khuyết. Tất cả cái gì đi ngược lại là điều không tưởng và trái với tự nhiên. Nếu chúng ta biết áp dụng triết lý Wabi-sabi vào cuộc sống để nhận diện và chấp nhận những khiếm khuyết, những thứ không hoàn hảo thì chúng ta sẽ thấy nhẹ nhàng hơn và có cái nhìn rất khác về cuộc sống hơn.
Câu chuyện không tưởng về sắc đẹp vĩnh cửu:
“Sắc đẹp vĩnh cửu“ tên một cuốn phim với tựa đề tiếng Anh “The Age of Adaline“ được đạo diễn Lee Toland Krieger mang ra trình chiếu vào năm 2015. “Sắc đẹp vĩnh cửu“ là một câu chuyện kể về Adaline, một cô gái trẻ đẹp 29 tuổi. Một tai nạn suýt nữa làm cô mất mạng đã mang lại cho cô một „đặc ân“ là được trẻ mãi không già. Đây là nỗi mơ ước của mọi phụ nữ muốn mình có được một sắc đẹp vĩnh cửu. Nhưng đối với Adaline, đây là một nỗi đau và cũng là một nỗi khổ tâm không dứt. Vì càng ngày Adaline càng trở lên cô độc, khi những người chung quanh cô già đi và chết, ngay đứa con gái của cô cũng không tránh được định luật „sinh lão bệnh tử“, còn Adaline thì mãi mãi trẻ trung với tuổi 29. Cô giấu điều bí mật đó và để có một cuộc sống bình thường, không bị soi mói, dò xét của mọi người, cô thay đổi liên tục chỗ ở, thay đổi giấy tờ và cô đã sống đơn côi như thế gần 1 thế kỷ. „Sắc đẹp vĩnh cửu“ mà con người ai cũng mong muốn, đã trở thành bi kịch đối với Adaline, cô sống với những ngày tháng lặng lẽ, buồn tẻ trôi đi. Cho đến một hôm, cô gặp được một chàng trai tên là Ellis. Ellis là người đã khơi dậy sự đam mê, lãng mạng và cuối cùng đã đánh thức tình yêu trong Adaline trổi dậy, một người đàn bà trên 100 tuổi nhưng mang một thân xác của cô gái chưa đầy 30. Tình yêu đã thay đổi đời cô hoàn toàn và mãi mãi. Cuối cùng cô chỉ ao ước như mọi người khác, được già đi với Ellis, người mà cô rất yêu thương. Nỗi sợ hãi ám ảnh lớn nhất của cô là ngày nào đó Ellis không còn nữa, cô phải ở lại thế gian sống một cuộc đời trơ trọi. Câu chuyện trong cuốn phim “Sắc đẹp vĩnh cửu“ đã nhấn mạnh về ý nghĩa của cuộc sống khi không có sự kết thúc và đi ngược lại định luật của thiên nhiên “thành, trụ, hoại, diệt“. Bởi sự lão hóa hay ngay cả cái chết cũng là những phần không thể tách rời khỏi cuộc sống của con người. Wabi-sabi là triết lý khuyến khích chúng ta nhìn nhận thực tế, chấp nhận quy luật của đổi thay, của vô thường, của “sinh lão bệnh tử“ để chúng ta trân trọng hơn về hiện tại và nơi đây.
Câu chuyện về tịch trà (wabi-cha):
Đây là một câu chuyện về một nhân vật đặc biệt, người Nhật tên là Sen No Rikyū (1522-1591), một vị thầy về trà đạo. Trà đạo là một phong cách uống trà với những dụng cụ thật đơn giản, với bối cảnh xung quanh thật giản dị mà chủ yếu là tập trung vào để thưởng thức trà trong yên tĩnh và thanh tịnh.
Một hôm vào chiều mùa thu, Rikyū sai học trò sửa soạn một buổi uống trà ở trong sân vườn. Được lệnh của thầy, người đệ tử đã hăng hái đi quét lá, xếp lại những viên đá vương vãi trong vườn và cắt tỉa lại những nhánh cây cho gọn gàng đẹp mắt. Trong lúc học trò đang làm vườn, người thầy đứng âm thầm quan sát. Một lúc sau, ông tới một cây sum suê lá và ra sức rung mạnh thân cây để lá trên cây rụng xuống đầy sân. Đây chính là sự khởi nguồn của triết lý sống trong Wabi-sabi, đề cao sự mộc mạc, đơn giản, hòa hợp với thiên nhiên, ngay cả chấp nhận điều khiếm khuyết để nhận diện được cái đẹp, cái tinh hoa trong đó. Rikyu ở thế kỷ 16 được coi là cha đẻ của trà đạo (Chanoyu) mà cũng còn được gọi là phong cách uống trà wabi-cha (tịch trà). Rikyu đặt trọng tâm trong việc uống trà là sự thanh tịnh, yên tĩnh chỉ có chủ với khách ngoài ra không còn gì quan trọng hết. Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của „trà đạo“ vào thế kỷ thứ 16, Wabi-sabi đã được đưa lên địa vị cao nhất trong quan niệm về thẩm mỹ ở nước Nhật.
Wabi-sabi xoa dịu những vết thương:
Cuộc đời không phải là một con đường thẳng tắp, êm ái không có những khúc quanh vấp ngã, những dốc sâu của thất bại, những hố thẳm của cạm bẫy. Chấp nhận sự không hoàn hảo là để xoa dịu đi nỗi đau khổ của thất bại làm đòn bẩy để đứng lên tiến tới thành công cho mai sau. Bởi vì mỗi lần thất bại là một bài học cho ngày mai. Chấp nhận những vấp ngã không đồng nghĩa với đổ vỡ cuộc đời mình mà là một cơ hội để thay đổi hiện tại.
Sự ra đi bất ngờ của người thân thương cũng là nỗi đau thương tưởng chừng như không bao giờ dứt. Wabi-sabi chỉ cho chúng ta cuộc sống là hữu hạn, chỉ thoáng qua, không phải mãi mãi như thế mà còn có thay đổi, có lão hóa và có mất mát. Chấp nhận cuộc sống chỉ là phù du là hòa giải những nỗi đau thương mất mát và để chúng ta trân trọng hơn những giây phút hiện tại mình đang sống.
Wabi-sabi khuyến khích chúng ta sống đơn giản, mộc mạc, chân thực, gần gũi và hòa đồng với thiên nhiên. Điều đó giúp chúng ta cân bằng được cuộc sống vì không phải chạy theo xa hoa, phù phiếm, nhất thời để đưa tới sự bình an trong một thế giới luôn luôn biến động. Như một buổi uống trà trong thanh tịnh (Wabi-cha) mang đến cho chúng ta những giây phút tận hưởng sự lắng đọng tâm hồn làm giảm bớt đi căng thẳng và lo âu.
Cuối cùng, Wabi-sabi không phải là lý thuyết suông mà là phong cách sống, như Trịnh Công Sơn đã từng viết lời tựa trong tập nhạc "Tự tình khúc" chấp nhận những điều bất toàn trong ta và tha nhân để tha thứ cho nhau:
"Có những ngày tuyệt vọng đến cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau"
Lương Nguyên Hiền
Tài liệu:
- “Die Kuh, die weinte“: nguyên bản bằng tiếng Anh „Opening the Door of Your Heart“, tác giả thiền sư Ajahn Brahm. Sách được dịch ra tiếng Việt “Mở Cửa Trái Tim“,
- “Wabi-Sabi: Die japanische Weisheit für ein perfekt unperfektes Leben“ nguyên bản bằng tiếng Anh “Wabi-sabi: Japanese Wisdom for Living a Perfectly Imperfect Life“, tác giả Berth Kempton
-“Chanoyu (Trà đạo), Quá trình ra đời và vai trò của Rikyū“ Vĩnh Sính
Gửi ý kiến của bạn



