Hôm nay,  

Vài Điều Tôi Còn Nhớ ....

08/01/200700:00:00(Xem: 11325)

Vài Điều Tôi Còn Nhớ Về: Cuộc Hành Quân Quế Sơn và Đại Tá Phạm Văn Phú

(Đây là nén hương lòng để tưởng niệm người anh hùng đã vị quốc vong thân.)

Lời người viết: Một bức hình của Thiếu Tướng Phú tôi thấy trong một tạp chí, cùng với hình của những vị tướng khác tuẫn tiết sau 30-4-75, đã gợi cho tôi nguồn cảm hứng để viết bài tường thuật nầy. Đây là câu chuyện thật về kết quả của một cuộc hành quân hỗn hợp Việt-Mỹ mà tôi còn nhớ. Trong bài nầy, tôi hy vọng, vài nét đơn sơ về Đại Tá Phú có thể giúp quý vị hiểu thêm về ông ta, đồng thời nhận định được về cách người Mỹ đánh giá ông ta như thế nào.                                                                                                   

Ngoài ra, tôi cũng hơi dông dài trong phần chú thích cốt để quý vị nhớ lại vài chi tiết về chiến cuộc hồi đó.

Tôi chỉ biết Đại tá Phạm Văn Phú một lần duy nhất trong cuộc hành quân phối hợp giữa Sư đoàn 2 Bộ binh VNCH và Trung Đoàn 5 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ.                                                      

Sau đây là câu chuyện về cuộc hành quân đó và vài nét đơn sơ về con người đã vị quốc vong thân.

Chuyện xảy ra 40 năm qua nhưng tôi chưa thể quên được! Năm 1966, áp lực địch tại quận Quế sơn và vùng Lạc sơn thuộc tỉnh Quảng Tín rất là nặng nề: bán kính an toàn là chừng 3 km. Do đó chúng ta mới có cuộc hành quân nầy để giải tỏa áp lực địch trong vùng.                                                                                                       

Hồi đó, quận trưởng quận Quế sơn là Đại uý Xán; một sĩ quan phụ tá là Thiếu úy Trương duy Cường. Tôi không nhớ Lạc sơn là tên một xã hay ấp. Tiền đồn Lạc sơn cách quận lỵ Quế sơn chừng 10 km nhưng hai bên khó liên lạc với nhau.

Sư đoàn 2 BB VNCH do Đại Tá Phạm Văn Phú chỉ huy. Tôi còn nhớ vài người trong bộ chỉ huy: Thiếu Tá Sáu, pháo binh. Viên cố vấn cho thiếu tá Sáu là Thiếu Tá Frank Jakes. (Tôi còn nhớ ông Jakes vì vài năm trước đó ông là cố vấn cho Đại uý Đỗ Xuân Giới, quận trưởng quận Lý Tín. Tôi đã gặp ông Jakes và Đại uý Giới lần đầu tiên trong ngày tôi cùng tiểu đoàn 1 trung đoàn 4 (1/4), sư đoàn 1 U.S. Marines, đổ bộ lên căn cứ Chu Lai vào ngày 7 tháng 5-1965. Và chúng tôi quen biết nhau từ đó).                                     

(Căn cứ Chu Lai trải dài dọc theo bờ biển từ quận Lý Tín tỉnh Quảng Tín đến Quận Bình Sơn tỉnh Quảng Ngải.)                                                                                      

   (Vài năm sau, khi tôi được biệt phái về Bộ Giáo dục trở lại nghề đi dạy Anh văn thì tôi lại gặp ông Jakes, lúc đó ông ta là Trung Tá, giám đốc cơ quan JUSPAO tại Huế. Chúng tôi rất mừng khi gặp lại nhau, và thường hay liên lạc và giúp đỡ nhau.)                                                                                              

 Trung đoàn 5 TQLC HK do Đại tá Weddeckie (tôi không nhớ correct spelling) chỉ huy; trung đoàn phó là Trung tá Gately. Tôi là Sĩ quan Liên lạc của trung đoàn.(1)

Lực lượng địch trong vùng chừng 2 sư đoàn, hình như là vậy"

Bộ tư lệnh hành quân đóng tại quận lỵ Quế sơn. Cuộc hành quân kéo dài chừng một tuần.

Kết quả: thắng lớn về phe ta, số thương vong rất là nhẹ. Chúng ta thu rất nhiều vũ khí đủ loại, rất nhiều súng lớn và cộng đồng. Đặc biệt có 4 thùng bằng nhôm sáng loáng, hình khối vuông, (tôi không nhớ rõ là 3 hay 4 thùng), mỗi cạnh chừng 1,5 m chứa toàn thuốc men, nhất là thuốc kháng sinh còn mới tinh, y cụ, v.v... do Liên Xô viện trợ, thuốc và y cụ của Mỹ cũng rất nhiều.

Địch gồm mấy trung đoàn coi như bị tiêu tùng hết. Tôi nghe nói VC chết nhiều lắm, không đếm xuể. 17 tù binh Bắc Việt bị bắt sống. Phần lớn các tù binh có vẻ thư sinh, có cậu đẹp trai, tuổi từ 20 đến 25, nói giọng Hà Nội. Vào ngày gần cuối của cuộc hành quân, Đại Tá Phú chiêu đãi các tù binh một bữa cơm “thân mật” tại tòa hành chánh quận. Bữa cơm gồm có cơm trắng, canh cá bống thệ với cà chua, thịt bò xào khoai hành, thịt heo phay, tôm rim với thịt heo.v.v... rất là thịnh soạn.

Trước khi ăn, Đại Tá Phú tuyên bố, “ Các em cứ yên tâm mà ăn cho ngon miệng, anh hứa là không hành hạ, đánh đập các em đâu. Khi ổn định rồi, anh sẽ gởi trả các em về bên kia vĩ tuyến...”

Đại Tá Weddeckie và các sĩ quan trong bộ chỉ huy rất khâm phục câu nói của Đại Tá Phú. Viên thiếu tá phòng nhì Mỹ, thiếu tá Linsay, có lẽ hiểu tiếng Việt, nói nhỏ vào tai tôi, “Đại Tá Phú rất nhân đạo với tù binh.”

Chúng tôi không ăn nhưng ngồi quanh đó. Một tù binh ngồi kế bên tôi vừa khóc vừa nói, “Đây là bữa cơm ngon nhất trong đời em, từ nhỏ đến giờ em chưa bao giờ được ăn cơm trắng.” Đa số các tù binh đều cho biết là “ Miền Nam bị Mỹ đô hộ nên được điều động vào để giải phóng đồng bào v.v...”

Thật ra, theo như CID Mỹ cho biết thì số tù binh bị bắt sống nhiều hơn, nhưng những tên nguy hiểm thì bị giam riêng và đang được thẩm vấn. Tôi không dám tìm hiểu thêm vì sợ CID nhờ tôi giúp thẩm vấn thì mệt vô cùng!

Tôi cũng thấy một trung sĩ an ninh quân đội VNCH thẩm vấn vài tên du kích địa phương.

Tôi còn nhớ mỗi buổi sáng, khi gặp Đại Tá Weddeckie và Đại Tá Phú gặp nhau thì cả hai cùng chào. Đại Tá Phú chào bằng cách xoay cả lòng bàn tay ra phía trước và nói, “Good morning, Sir!”, thay vì để tay ngang mày như mọi người. Đại Tá Phú nhỏ thó nhưng giọng nói rất hùng hồn, người trầm lặng, luôn luôn có vẻ buồn và cô đơn.

Tôi không còn nhớ vì sao ngày cuối cùng của cuộc hành quân, Đại Tá Phú và tôi còn ở lại Lạc sơn. Do đó một chiếc HU1B của TQLC đến đón chúng tôi về Tam Kỳ, tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Tín, nơi tổng kết cuộc hành quân. Trên chuyến bay chỉ có hai người, một đại tá và một trung úy, mà không ai nói với ai một lời nào. Tôi cố gắng gợi chuyện nhưng Đại Tá Phú làm thinh, luôn luôn có vẻ buồn xa xôi, như đang suy tư chuyện gì ...

Đến Tam Kỳ thì Đại Tá Phú lo chuẩn bị hồ sơ để thuyết trình; còn tôi thì được gọi đến trình diện Đại Tá Weddeckie gấp. Boss của tôi chỉ bảo tôi đọc lại bản phúc trình xem cần thêm bớt điều gì không. Ông ta có vẻ lo lắng lắm vì phải trình bày cho Tổng Thống Thiệu nghe. Tôi đã giúp Đại Tá Weddeckie bổ sung nhiều chỗ thiếu sót. Phần quan trọng không được nói đến là sự hòa hợp giữa hai lực lượng Việt-Mỹ: giữ đúng giới hạn điều quân nên không có sự va chạm, không có bắn lầm nhau, không quân và pháo binh yểm trợ tối đa, tin tình báo rất chính xác, không có sự vi phạm tài sản của nhân dân, giờ hẹn tại các điểm nóng được theo đúng.v.v...                                                 

Người soạn phúc trình cho Đại Tá là John, anh ta là Lance Corporal (2). Tôi yêu cầu ông ta đừng khiển trách John vì anh ta mới đến Việt Nam chừng hai tháng, chưa quen việc.  Trong phần cuối bản phúc trình, nhân nói về “excellent cooperation”, Đại Tá Weddeckie đã khen ngợi Đại Tá Phú hết mình, tôi chỉ còn nhớ vài ý chính: “phối hợp các lực lượng rất khéo léo, phản ứng rất lanh lẹ và đúng lúc, lịch sự và nhã nhặn với phe đồng minh, theo đúng luật quốc tế về tù binh, một cấp chỉ huy hành quân rất tài ba, v.v...” 

Phòng thuyết trình là phòng hội tại tòa hành chánh tỉnh Quảng Tín. Hồi đó, Lê Tấn Nhiểu là phó tỉnh trưởng nội an tỉnh Quảng Tín.

Đến chừng 11 giờ trưa thì phái đoàn từ Sài Gòn ra chừng 8 vị, gồm Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tướng Kỳ, Tướng Thắng... và nhiều ông tướng khác mà tôi không biết tên. Tôi đã gặp và tiếp xúc với nhiều tướng Mỹ, nhưng tướng tá thuộc quân đội VNCH thì tôi ít biết.

Tôi không hiểu vì sao hồi đó không có tướng Mỹ nào đến tham dự thuyết trình cả. TrungTướng Fields, Tư lệnh Sư đoàn 1 TQLC, cấp chỉ huy trực tiếp của Đại Tá Weddeckie, ở Chu Lai, chỉ cách Tam Kỳ chừng 15 km không đến, Tướng Nickerson và Tướng Lewis Walt thì ở Đà Nẵng cũng không đến.

Thấy quan khách của phía VN hùng hậu quá mà phía Mỹ thì chẳng có ai nên Đại Tá Weddeckie có vẻ cảm thấy cô đơn.

Đây không phải vấn đề ngoại giao, nhưng tôi thấy phía VN có Tổng Thống Thiệu thân hành đến dự thì phía Mỹ ít ra cũng có một sĩ quan cao cấp, như Tướng Krulak (3) chẳng hạn, đến để khen thưởng và ủy lạo, nhưng chẳng thấy ma nào cả!                                                                             

Lúc đầu, Đại Tá Weddeckie định bảo tôi phiên dịch vì sợ các sĩ quan VN cấp nhỏ không hiểu được, nhưng tôi tránh và bảo tất cả đều có thể hiểu tiếng Anh, ông nghe có lý nên lại thôi. Tôi đã từng tiếp xúc với nhiều tướng tá, nhiều nhân vật cao cấp của Mỹ và thấy họ rất là bình dị, cởi mở và gần gũi, nhưng bây giờ nếu phải đứng đối diện với tướng tá VN, quá xa lạ đối với tôi, thì tôi e ngại vô cùng.

Trong phần thuyết trình, khi Đại Tá Weddeckie nói đến Đại Tá Phú thì Tổng Thống Thiệu và Tướng Thắng gật gù có vẻ thích chí lắm.

Sau buổi thuyết trình, mọi người đến bắt tay thăm hỏi Đại Tá Phú. Tôi thấy chỉ có Tổng Thống Thiệu và Tướng Thắng có vẻ thân mến với Đại Tá Phú; những người khác cũng chào hỏi nhưng có vẻ lạnh lùng, chỉ xã giao mà thôi. Tôi không sống với quân đội VNCH nên tôi không rõ nội tình. Một cách rất là khách quan và vô tư, tôi thấy sao thì nói lại vậy mà thôi. Mà cũng rất có thể là nhận xét của tôi không được toàn diện chăng"                                                             

Tiếp đến, hai vị Đại Tá mời phái đoàn đi thăm khu trưng bày chiến lợi phẩm: khu vực của VN riêng, khu của Mỹ riêng. Như tôi đã nói ở trên, nhiều không thể tưởng tượng được: súng nhỏ, súng lớn, súng phòng không, SKZ, Bazooka v.v... Lúc đó các tù binh ở đâu thì tôi không nhớ. Không biết có được đưa ra trình diện hay không" Các phóng viên Mỹ thì chú ý nhiều đến các thùng thuốc và y cụ. Họ thắc mắc vì sao thuốc Mỹ vừa mới viện trợ cho VNCH lại lọt vào tay Việt Cọng. Có một điều rất tức cười tôi còn nhớ là có một súng phòng không lớn, phía VN lấy được cái nòng, còn Mỹ thì lấy được cái chân của cùng một khẩu súng.

Vài ngày sau, tại Bộ Chỉ Huy Trung đoàn 5 TQLC tại đồi số 9, tây bắc căn cứ Chu Lai, phía tây quốc lộ 1, lại có buổi thuyết trình nội bộ về cuộc hành quân và để rút ưu khuyết điểm. Lần nầy thì có Trung Tướng Fields, vài phóng viên và ba người khách mặc civil đến tham dự. (Một trong ba người khách hình như là cố vấn của Tướng Hoàng Xuân Lãm, tôi không nhớ rõ; một người khác tên là Mc. gì gì đó. Vài năm sau khi trở về Huế, vài lần ông Frank Jakes đưa tôi đến số 4 Trần Cao Vân (4) chơi, gặp lại Mc. tôi mới biết ông ta là ai).

Trong buổi thuyết trình, trước mặt Trung Tướng Fields, lại một lần nữa, Đại Tá Weddeckie ca ngợi Đại Tá Phú hết lời. Lần nầy ông ta nêu thắc mắc:

 Tại sao một cấp chỉ huy tài ba như vậy, lâu năm trong binh nghiệp mà đến bây giờ chỉ mới là đại tá, và không được giữ chức vụ gì quan trọng"

Sau đó là giờ giải lao và dùng cơm tối. Mọi người đều cảm thấy vui vì chiến thắng.

Tối hôm ấy, tại phòng ăn sĩ quan, thay vì tôi ngồi ăn cùng bàn với các roomates của tôi như thường lệ, Đại Tá Weddeckie mời tôi ngồi cùng bàn với ông ta cùng với Trung Tướng Fields các phóng viên, các người khách mặc áo quần civil, các sĩ quan phòng 2 và phòng 3. Thật ra, tôi không thích gần các phóng viên và các người khách, vì họ thường hỏi những câu rất khó trả lời. Trong khi chờ đợi món beefsteak, chúng tôi uống bia và nói chuyện với nhau. Tướng Fields thì nói chuyện với các sĩ quan khác trong bộ chỉ huy, còn Đại Tá Weddeckie thì trao đổi với tôi một vài câu. Ông ta hỏi tôi,                                                                                

“Trước đây Trung úy có quen biết Đại Tá Phú không"”

Tôi bèn đáp:

“Thưa không. Tôi gặp ông ta lần đầu trong cuộc hành quân nầy.”

“Anh có hiểu vì sao Đại Tá Phú lúc nào cũng có vẻ buồn và cô đơn"

“Tôi không rõ.

“Tôi thấy có vài ông tướng dường như không thân mật với Đại Tá Phú lắm, anh có nhận thấy điều đó không" Tại sao vậy"

“Thưa có. Tôi cũng nhận thấy như vậy. Tôi không rõ vì tôi có bao giờ tiếp xúc với quân đội VNCH đâu. Chắc ông cũng biết, tôi sống với Marines 24/24. Ngoại trừ những lần đi họp, cứ chừng 6 hay 7 tháng tôi mới về Huế thăm bố mẹ tôi một lần rồi ghé lại quân đoàn I lãnh lương mà thôi, làm sao mà tôi biết được"”

Sau đó, cố vấn của Tướng Lãm hỏi,

“Thưa Đại Tá, Đại Tá nghĩ thế nào về vị Đại Tá Phú"

“Tôi đã nói nhiều về ông ta trong bản phúc trình rồi, ông có nghe không" Bây giờ tôi nói thêm điều nầy: Đại Tá Phú có “very good personality”, làm việc với nhau chỉ có một thời gian ngắn mà tôi rất mến ông ta. Chúng tôi hành động rất ăn khớp với nhau. Trong tương lai nếu có những cuộc hành quân phối hợp như thế nầy thì tôi mong partner của tôi phải là Đại Tá Phú. Anh thử tưởng tượng nếu có sự chuệch choạc về lệnh hành quân, về giờ giấc, tọa độ, tiếp liệu v.v... hay có sự kình chống, kỳ thị nhau ...thì nguy hiểm biết mấy, và hậu quả sẽ như thế nào" Lẽ dĩ nhiên là sẽ không tốt đẹp như bây giờ. Đây tôi cũng xin cảm ơn vị sĩ quan liên lạc của tôi đã giúp hai lực lượng hiểu nhau một cách chính xác.” Khi nghe tới câu đó, Trung Tướng Fields nheo mắt nhìn tôi mỉm cười.

Sau đó chúng tôi ăn uống với nhau rất là vui vẻ. Món ăn, nhất là món beefsteak, có vẻ ngon hơn mọi ngày, có lẽ vì có Tướng Fields cùng tham dự và cũng để ăn mừng luôn thể.

Những điều tôi biết về vị anh hùng của chúng ta chỉ có chừng ấy. Tôi là nhân chứng kể chuyện “nhà” với tất cả tấm chân tình những điều tai nghe mắt thấy, không thêm không bớt. Có lẽ nhiều người đã biết nhiều về Đại Tá Phú và viết nhiều về ông ta. Tôi thì chỉ biết Đại Tá Phú (5) trong một thời gian ngắn nên cái nhìn của tôi chỉ là bất chợt và thoáng qua, và từ một góc độ khác.                                                                                 

Chuyện đã qua nhắc lại làm chi thêm buồn! Nhưng vì có liên quan đến Đại Tá Phú nên tôi xin kể lại hầu quý vị, để chúng ta cùng tri ân những người đã chết để chúng ta được sống.                                                     

Có thể có nhiều điều tôi không nhớ hết. Nếu có điều gì nhầm lẫn, xin quý vị miễn chấp. Nhưng tôi nghĩ dù sao tôi cũng phải viết lại, vì rất có thể mai đây, khi tôi không còn minh mẫn, không nhớ được nữa thì ai là người kể cho quý vị nghe những chi tiết nhỏ nhặt nầy" Mà tôi cũng đã “thành thật khai báo” hết rồi, xin đừng ai hỏi thêm điều gì nữa!

Khi viết bài nầy thì tôi không rõ Đại Tá Weddeckie đang ở nơi đâu" Hay biết đâu ông ta đã quy tiên rồi, và bây giờ thì hai vị Thiếu Tướng (6) đang dạo chơi nơi cõi thiên đường"

(1) Các thông dịch viên quân sự thường là từ cấp Trung Sĩ trở xuống. Sĩ quan VN có thể làm công việc thông dịch, nhưng danh xưng của họ không phải là thông dịch viên. Một lần, khi tôi đóng tại Cồn Tiên chung với trại Lực Lượng Đặc Biệt Anh Linh, vì công tác, một số sĩ quan và tôi ghé lại trung đoàn 2 VNCH tại Đông Hà, viên thiếu tá cố vấn Mỹ của Trung Tá Vũ Văn Giai gọi tôi là “interpreter” thì bị Trung Tá Giai sửa lưng ngay, “No! Liaison Officer!”

(2) Lance corporal: hạ sĩ; Corporal: hạ sĩ nhất.

Binh sĩ và Hạ sĩ quan Mỹ gồm 9 bậc, (từ E1 ... đến E9); còn VN thì chỉ có 8 bậc nên nhiều người làm tự điển dịch sai. Tôi nghe nói ngày xưa lúc diễn hành, các hạ sĩ không được mang súng mà chỉ cầm một cái giáo (lance). Sau chừng 6 tháng, lance corporal thăng lên corporal. Trong quân đội, lance có nghĩa là sắp sửa. Một trung úy sắp lên đại úy thì được gọi là “Lance Captain”; một đại úy sắp lên thiếu tá thì bạn bè gọi ông ta là “Lance Major”.

(3) Năm 1966, Tướng Krulak là 2 sao, bây giờ là 4 sao, Tổng Tư lệnh TQLC Hoa Kỳ. Ông ta rất lùn, độ 1m55 thôi. Lính Mỹ gọi ông là “Shorty”. Tôi đã gặp ông ta nhiều lần. Cuối năm 1965, tôi đưa ông đi thăm Ấp Tân Sinh tại đảo Kỳ Hòa. Đảo nầy ở phía bắc căn cứ Chu Lai. Trên đảo, về phía đông là căn cứ hỏa tiễn HAWK, một loại hỏa tiễn S.A.M., để bảo vệ phi trường Chu Lai.

(4) Tôi nghe nói 4 Trần Cao Vân, Huế là một station chính của CIA tại vùng một chiến thuật.

(5) Tôi xin dùng từ Đại Tá vì đó là cấp bậc của ông ta lúc tôi gặp ông vào thời điểm 1966. Chuyện ông được thăng lên Thiếu Tướng là về sau nầy.

(6) Về sau, vì nhu cầu chiến trường, tôi được điều động ra sư đoàn 3, trực thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn 26 (2/26) U.S. Marines, đóng ở Khe Sanh thì tôi có nghe là Đại Tá Weddeckie đã được thăng lên thiếu tướng. Theo tôi nghĩ tiểu đoàn 2/26 có lẽ là tiểu đoàn đụng trận nhiều nhất tại vùng I. Tôi đã ba lần suýt chết với tiểu đoàn nầy trong những cuộc hành quân giữa Khe Sanh, Rockpile và Cồn Tiên.

Viết xong tại San José, ngày 16-12-06 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.