Các con số về hạn hán cũng cho thấy chỉ có 13.6 phần trăm của tiểu bang có thể xếp loại “tạm đủ nước”, sụt giảm từ con số 28 phần trăm hôm Tháng Tư. Ông MacDonald nói rằng các khu vực bị lâm vào cảnh hạn hán trở lại bao gồm tất cả hoặc nhiều phần đất của Milparinka, Cobar, Dubbo, Molong, Central Tablelands, và Mudgee ở phía tây, Coonabarabran, Tamworth và Northern Slopes ở phía tây bắc, Bombala, Cooma và Braidwood ở phía nam. Khoảng 63 phần trăm số lượng, ước tính khoảng 243,970 hecta cải dầu (canola) và 26 phần trăm của 3.31 triệu hecta lúa mì đã được gieo hạt. Vụ mùa trong mùa đông hiện nay ước lượng khoảng 5.25 triệu hecta; trong khi hơi cao hơn mức của những năm gần đây đã phải phụ thuộc vào lượng mưa. Thách đố lớn nhất mà những người trồng trọt phải đối diện, đặc biệt ở vùng phía bắc NSW là sự giảm sút độ ẩm của đất.
Ông MacDonald nói rằng, nhiệt độ trung bình và độ lạnh đã đóng góp vào việc làm giảm độ ẩm của đất. Những điều kiện yếu kém của thời vụ lần này cũng làm tác động tới các kỹ nghệ chăn nuôi với sự giảm thiểu mức sản xuất của việc chăn nuôi súc vật ăn cỏ, đặc biệt là ở khu vực trung và nam bộ. Nơi đây con số đàn vật nuôi phải bị đưa đi bán vẫn tiếp tục sự gia tăng vì niềm tin vào sự bảo đảm của thời vụ mùa đông đã bị suy yếu đi. Mọi việc đã vẽ lên một bức tranh ảm đảm cho khu vực nông gia và chúng ta chỉ còn hy vọng là Tháng Sáu sẽ sản xuất được một lượng mưa tốt hơn để giúp cho vụ mùa và các đồng cỏ được tăng trưởng.