Hôm nay,  

Tết Nguyên Đán

14/01/200900:00:00(Xem: 10176)
TẾT NGUYÊN ĐÁN
Chân Quê
"Nguyên-Đán" là chữ Nho; diễn nghĩa theo chữ nôm ý chỉ: "Những buổi rạng đông của sự khởi đầu"; khởi đầu cho Năm, Tháng và Mùa.  Người Việt-Nam chúng ta phân chia thời-gian dựa theo sự vận hành của mặt trăng, mỗi Tháng được bắt đầu vào ngày của tuần trăng mới và Năm cũng khởi đầu vào tuần trăng mới đầu tiên tiếp theo lúc mặt trời ra khỏi Chí-Tuyến-Nam.  Như vậy, Tết dựa theo sự vận hành của mặt trời lẫn mặt trăng.  Nó mở đầu Mùa Xuân, vì thế Tết bao giờ cũng rơi vào thời-gian của hạ tuần tháng Giêng hoặc trung-tuần tháng Hai (Dương-Lịch).
Việc chuẩn bị cho Tết Nguyên-Đán bắt đầu ngay sau ngày cúng Thần Bếp, nhằm ngày 23, tháng Chạp (Âm-Lịch).  Thần Bếp chính là Táo-Quân (thường hay bị nhầm lẫn với Thổ-Công hay Thổ-Địa).  Để phân biệt Thổ-Công và Táo Quân thì Thổ-Công được trình bầy trên bàn Thờ bằng một cặp vợ chồng, còn Táo-Quân là một bộ ba; gồm một Thần Nữ có hai Thần Nam kề bên.  Theo lời dậy truyền của các nhà Nho, người ta thường công nhận rằng Thổ-Công được gộp trong bộ ba đó; gồm Thổ Kỳ, Thổ Địa và Thổ Công.  Các vị này được tiêu biểu bằng ba hòn gạch xếp thành cái kiềng đun bếp.  Hòn thứ nhất tiêu biểu cho "Đất Nước" nói chung.  Hòn thứ hai là "Đất trong Nhà" và hòn thứ ba là "Thần Bếp".
Theo truyền-thuyết kể rằng: ngày xửa, ngày xưa có đôi vợ chồng, người chồng tên Trọng-Cao; vợ là Thị-Nhi.   Vì ở với nhau mãi mà không có con cái nên tính tình họ trở nên cáu gắt.  Rồi đến một ngày kia Trọng-Cao trở thành kẻ nghiện rượu và cờ bạc hư hỏng; lại đối xử ngược đãi với vợ mình là Thị-Nhi.  Nàng bỏ nhà ra đi, sau đó tái hôn với  Phạm-Lang, là một người chồng tốt chăm chỉ ruộng vườn, thương yêu nàng hết mực.  Thị-Nhi và Phạm-Lang sống rất hạnh-phúc bên nhau, trong khi Trọng-Cao - người chồng cũ của nàng sống cảnh cơ-hàn, phải đi ăn xin khắp các nẻo đường.  Đến một ngày kia Trọng-Cao đói lả người, ngã trước cửa nhà Thị-Nhi.  Nàng nhận ra người chồng cũ; đem lòng thương-xót, cho anh vào nhà ăn uống.  Trọng-Cao khốn khổ ăn xong thì ngã lăn ra đất mà ngủ.  Thị-Nhi thấy Phạm-Lang chồng của mình sắp trở về nhà bèn khiêng Trọng-Cao dấu kín vào trong một đống rơm ở giữa đồng.  Nào ngờ sau bữa cơm tối, trước khi đi nghỉ Phạm-Lang nghĩ đến công việc là phải đốt rơm để sáng hôm sau rắc tro lên thửa ruộng lúa mà cầy.  Phạm-Lang vô tình châm lửa vào đống rơm có Trọng-Cao đang ngủ say trong đó,  Thị-Nhi thấy lửa cháy và nghĩ mình là nguyên-nhân vụ ngộ sát Trọng-Cao, rồi để tự trừng-phạt nàng lao vào ngọn lửa.  Phạm-Lang yêu vợ tha thiết, thấy thế cũng nhảy theo nàng.  Người đầy-tớ trung-thành trong nhà nhìn thấy ông-bà chủ chân tay co quắp trong đống lửa hồng nên cũng lao đầu vào chết theo.
Về sau, người ta đặt tên cho hòn đá đặt hai bên bếp lửa là "Ông"; nhắc lại hai người chồng.  Hòn đá đặt phía trước là "Bà"; hiện thân của người vợ.  Có một viên cuội đặt trên than để không cho lửa cháy quá nhanh đó là hòn "Lộc"; tiêu-biểu cho người đầy-tớ trung-thành.  Thượng-Đế ở trên Trời xúc động trước tấm bi-kịch này bèn giao cho họ trông nom bếp núc của tất-cả các gia-đình trên thế-gian và đánh-giá mọi hành-vi của con người trong năm.  Sau đó sẽ trình tấu lên Ngọc-Hoàng Thượng-Đế vào ngày 23, tháng Chạp (Âm-Lịch).
Cho đến ngày hôm nay, ở Việt-Nam rất nhiều người vẫn tìm mọi cách lấy lòng các vị Thần Bếp đó, họ cúng cho các vị này một bữa cỗ thật thịnh-soạn, đốt cho các Thần những chiếc mũ tuyệt đẹp trang điểm hoa sặc sỡ, nhiều thoi vàng và bạc bằng hàng mã (giấy).  Người ta thả xuống khúc sông gần nhất những con cá Chép dùng làm ngựa cho các Thần đó cưỡi trên chặng đường mây dài từ Đất lên Trời hầu mong được ơn phúc.  Hủ-tục này cũng bị người đời châm-biếm vì những sự ác-độc của con người trong năm, họ không hoán cải sống thiện, sống lành.  Chỉ mong làm vui lòng Táo Ông, Táo Bà để lập công với Thượng- Đế trong việc cúng tế mà thôi.
 Ngày mùng 1 Tết Nguyên-Đán theo phong-tục, tập-quán của người Việt-Nam xưa kia, người ta thổi ống Tiêu để đoán tính chất điều-kiện khí hậu trong suốt một năm.  Người ta cũng uống rượu để xua đi các hơi lạnh và tử-khí.  Ngoài ra còn có một hủ-tục nữa là tục "Đốt Vàng Mã" nhằm xua đuổi hiểm-họa, binh đao.  Người ta giặt quần áo để tránh mọi bệnh tật đồng thời may áo mới để tránh sự khốn khó suốt trong năm.
Xưa kia ở miền Bắc, trước nửa tháng Tết, những Ông Thầy Đồ ra chợ trải chiếu ngồi để viết câu đối bán.  Người nào đi buôn hoặc đi làm ăn xa xôi đều nghỉ việc để về nhà ăn Tết.  Những ngày cuối năm ai nấy cũng dọn dẹp, chùi rửa mọi vật dụng, nhất là các lư-hương trên bàn Thờ sáng choang.  Có người dán tranh Quan-Tướng trước cửa nhà hoặc dán bốn chữ "Thần Trà - Uất Lũy", nhằm để ma quỷ sợ không dám vào nhà họ (theo điển tích đây là tên hai ông Thần ở dưới một gốc cây đào lớn thuộc núi Độ-Sóc; cai quản đàn Quỷ dữ.  Hễ Quỷ nào làm hại nhân-gian thì Thần ấy sẽ giết đi mà ăn thịt).   Có nhiều nhà chặt tre làm cây Nêu hoặc lấy cành Đa, lá Dứa cài ngoài cửa ngõ hoặc rắc vôi bột, vẽ bàn cờ, cái Cung, cái Nỏ trong sân…Tất cả đều có ý trừ Quỷ, không muốn chúng vào nhà họ quấy phá trong năm mới.

Nửa đêm 30, rạng sáng mùng 1 Tết, nhà nào cũng bày Hương-Án ra giữa sân để cúng Giao-Thừa.  Ở những thôn xóm nhỏ trong làng quê họ cúng Tế nơi có trống đánh và pháo đốt.  Tập tục nước ta tin rằng mỗi năm đều có một Ông Hành-Khiển coi việc nhân-gian, hết năm thì Thần nọ bàn-giao công việc cho Thần kia, cho nên việc cúng tế là để tiễn đưa "Ông" cũ và đón "Ông" mới về.
Đến sáng mùng 1 Tết phải làm cỗ cúng Gia-Tiên, có bánh-chưng, giò chả, dưa hành…Người miền Nam thường cúng ngũ quả, trong đó bắt buộc phải có: Mẵng-Cầu, Dưa-Hấu, Dừa, Đu-Đủ, Xoài. Ý cầu xin Trời Phật, Ông-Bà  cho được: "Cầu Vừa Đủ Xài" (tiếng miền Nam phát âm trại từ "Vừa" thành "Dừa", "Xoài" thành "Xài" ).   Có nhà dựng hai cây Mía cạnh bàn thờ để làm gậy chống cho "Ông Vải". 
Trong ngày này ai ai cũng phải giữ-gìn từng  "lời ăn, tiếng nói" vì họ sợ nói bậy sẽ "Dông" cả năm.  Nhiều gia-đình nhờ một người phúc-hậu, nhanh nhẹn, khỏe mạnh, nhân-từ; sáng sớm mùng 1 Tết đến "Xông Đất" nhằm mưu cầu cho cả năm mọi người trong nhà được mọi sự may mắn tốt lành, không bị đau ốm vặt.
Có người kiêng không được quét nhà hoặc hốt rác, chỉ vun vào một xó, đợi sau ba hôm động-thổ rồi mới đem đi đổ.  Tục truyền kể rằng trong "Sưu Thần-Ký" của Trung-Hoa có câu chuyện một người làm nghề lái-buôn tên Âu-Minh một hôm đi qua hồ Thanh-Thảo, Thủy-Thần cho một nàng tên Như-Nguyện theo chân về nhà hầu hạ Âu-Minh được vài năm, chàng trở nên giàu có.  Vào ngày mùng 1 Tết năm ấy, Âu-Minh say khướt trở nên hung-hãn đánh đập Như-Nguyện, nàng hầu sợ quá chui vào đống rác rồi biến mất về với Thủy-Thần.  Từ đó trở đi cơ-nghiệp nhà Âu-Minh sa sút trầm trọng.  Theo tục này, người ta kiêng không dám hốt rác trong ba ngày Tết vì sợ bị khó nghèo.
Cũng trong mùng 1 Tết Nguyên-Đán, cúng Gia-Tiên xong, con cháu quây quần quỳ cúi lậy hai lậy dưới chân Ông Bà, Cha Mẹ để "Mừng Tuổi".  Sau đó Ông Bà, Cha Mẹ cũng "Mừng Tuổi" lại bằng cách "Lì-Xì" cho con cháu.
Người xưa có câu: "Mùng 1 Tết Mẹ, Tết Cha.  Mùng 2 Tết Chú, Mùng 3 Tết Thầy".  Họ hàng thân-tộc, thầy trò, bạn hữu, xóm giềng đến nhà nhau chúc Tết với những câu như: "Thăng Quan, Tiến Chức", "Sinh Năm, Sinh Bảy", "Vạn Sự Như Ý", "Buôn Bán Phát Tài", "Học Hành Tấn Tới", "Sức Khỏe Dồi Dào"…
Trong những hôm Tết, có người chọn ngày hợp tuổi, giờ tốt để "Xuất Hành" đúng hướng, người đi Chùa hái Lộc (hoa trái) về cài vào cửa nhà.  Người làm Quan chọn ngày "Khai Ấn".  Học-Trò chọn ngày "Khai Bút".  Người buôn bán chọn ngày mở cửa hàng.  Nông-Phu chọn ngày tốt để làm "Lễ Động-Thổ"…Tất cả đều mưu cầu mọi sự may mắn, tốt đẹp cho trọn năm tới.
Tết Nguyên-Đán ngày xưa bắt buộc phải có đốt pháo.  Điển tích này trong "Kinh Sở Tuế Thời Ký" của người Tàu kể rằng Sơn-Tiêu (tức là Ma Núi) trong ngày đầu năm khi chạm vào người nào, người đó sẽ bị đau ốm cả năm.  Nó chỉ sợ tiếng pháo, hễ đốt pháo thì nó sẽ không dám đến gần người ta.   Nhưng theo truyền-thuyết của người Việt-Nam thì tiếng pháo nổ dòn tan là tiếng vui mừng đón Xuân chứ không có ý trừ ma quỷ.
Sau ba ngày Tết, sang mùng 4 dân-gian có hủ-tục "Hóa Vàng" (đốt những tờ tiền, quần áo, nhà xe…bằng hàng mã dùng để cúng người quá-vãng với hy-vọng họ dùng được trong thế-giới bên kia).  Nếu rơi đúng vào ngày kỵ tuổi của chủ nhà thì họ sẽ "Hóa Vàng" trước hay sau một ngày đều được.
Các truyền-thống cổ xưa không còn được áp dụng nhiều vào ngày nay.  Nhưng chẳng có biến cố nào của thế-giới bên ngoài có thể cướp đi ở người Việt-Nam nghèo nhất đến kẻ giàu nhất niềm vui đón Tết-Nguyên-Đán.
Ngày xưa vào năm 1789. Vua Quang-Trung đã phải cho binh-sĩ  ăn mừng Tết Nguyên-Đán trước mấy ngày rồi mới bất ngờ phục kích quân Trung-Quốc đóng ở Hà-Nội vào giữa ngày Lễ Hội Truyền-Thống trước khi nhà Vua tiến quân đánh chiếm lại xứ Bắc, Việt-Nam.
Trong thời-kỳ chiến-tranh khốc liệt nhất các chiến-sĩ Quân-Lực Việt-Nam-Cộng-Hòa cũng đón Xuân nơi tiền đồn khi thấy mai vàng khoe sắc thắm và trong các học-đường thường tổ-chức "Cây Mùa Xuân cho Chiến-Sĩ" nhằm gửi quà, khăn quàng hay áo ấm đến những anh-hùng nơi tuyến đầu tổ-quốc.  Tôi còn thuộc lòng một bài "Ám Đọc" thời niên-thiếu:
"Mùa Xuân đến nơi xa trường gió lạnh.
Người quân-nhân lăn lộn với gió sương.
Gia-đình em đang sống cảnh yêu thương.
Em đâu nỡ quên chàng trai dũng-mãnh.
Đây chiếc áo len đan trong đêm lạnh.
Nền xanh lam thêu đậm nét vàng tươi.
Em gửi tặng chàng chiến-sĩ xa xôi.
Để ấp ủ lòng người nơi biên ải"
Đã trải qua mấy mươi cái Tết biệt xứ tha hương.  Giờ tôi mới nhớ ra mùa Tết năm đó cũng là cái Tết đầu tiên tôi biết đan áo và khăn quàng; không biết chiếc áo và khăn quàng do chính tay tôi đan gửi anh lính-chiến ngày xưa giờ đi về đâu cũng như "Anh" đang lưu lạc chốn nào"  Nhưng tôi chắc chắn rằng lòng tri-ơn chân tình quý trọng của tôi dành cho "Anh" là muôn đời, bất di-bất dịch.
Cảm-ơn "Anh": những chiến-sĩ ngày nay là các Cựu Quân-Nhân Quân-Lực Việt-Nam-Cộng-Hòa cùng những Chiến-Sĩ Đồng-Minh trong mọi binh-chủng;  những người đã hy-sinh canh giữ biên thùy, cho tôi mừng bao nhiêu cái Tết Nguyên-Đán nơi thành-phố Saigon vô cùng an-bình hạnh-phúc năm xưa.  Cảm-ơn Anh: Những Người Chiến-Sĩ Vô-Danh…
Chân Quê

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.