Hôm nay,  

Hy Vọng & Thực Tế Tan Hoang

21/03/201000:00:00(Xem: 3879)

Hy Vọng & Thực Tế Tan Hoang – Nguyễn Xuân Phong (dịch thuật: Phan Quân)

LGT: Từ năm 1965 đến 1975, ông Nguyễn Xuân Phong đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ VNCH và biết nhiều bí mật dẫn đến việc mất Miền Nam. Trong thời gian hòa đàm Ba Lê về Việt Nam, từ địa vị thành viên phái đoàn lúc ban đầu, ông đã trở thành Trưởng Phái Đoàn vào giai đoạn cuối cùng, với chức vụ Quốc Vụ Khanh đặc trách hòa đàm trong chính phủ. Đặc biệt, ông cũng là nhân vật quan trọng trong Hội Nghị Thượng Đỉnh của nguyên thủ 7 quốc gia Châu Á Thái Bình Dương tại Manila vào 2 ngày 24 & 25 tháng 10, 1966, nhằm thẩm định về cuộc chiến ở Nam Việt Nam với sự tham dự của Tổng thống Phi Luật Tân, Ferdinand E. Marcos; Tổng thống Đại Hàn, Park Chung Hee; Tổng thống Hoa Kỳ, Lyndon B. Johnson; Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo VNCH, Nguyễn Văn Thiệu; Thủ tướng Úc Châu, Harold Holt; Thủ tướng Tân Tây Lan, Keith Holyoake; Thủ tướng Thái Lan, Thanom Kittikachorn; và Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương VNCH, Nguyễn Cao Kỳ. Tại Hội Nghị, ông là người Việt Nam duy nhất được trực tiếp nghe trưởng phái đoàn Nam Hàn cho biết: Tổng thống Nam Hàn đã cảnh giác, [qua kinh nghiệm cuộc chiến tranh Cao Ly] nếu như hòa đàm [với VC] có xảy ra, chính phủ Sài Gòn sẽ thấy Mỹ thương thuyết thẳng với phía bên kia [VC], còn Sài Gòn chẳng nói năng gì được trong khi thương thuyết, và cuối cùng sẽ phải chấp nhận và tuân hành những gì Mỹ và VC ký kết. Quả nhiên, 6 năm sau, lời tiên đoán này đã trở thành sự thật tại Hội Nghị Ba Lê, dẫn đến bản Hiệp Định đầy phi lý, khi Mỹ toa rập với VC cho phép quân đội xâm lăng VC được tiếp tục hiện diện trên lãnh thổ VNCH, dẫn đến thảm kịch 30-4-75. Trong những số trước, SGT đã giới thiệu một số chương trong tác phẩm  "Hope and Vanquished Reality", được ông viết theo yêu cầu của "The Center for A Science of Hope" ở New York. Nay do yêu cầu của đông đảo độc giả, chúng tôi xin giới thiệu tiếp một số chương quan trọng trong tác phẩm của ông.

*

(Tiếp theo...)

Gửi cho vài ba phi cơ của Đệ Thất Hạm Đội, dù chỉ để tác động tâm lý, hoặc giả cho Hà Nội thấy một loại dấu hiệu nào đó nói rằng Hoa Kỳ không từ bỏ ý niệm lâu đời về việc bảo vệ một "Tiền Đồn Thế Giới Tự Do" ở Nam Việt Nam mà cũng thực sự khó khăn đến thế sao" Giúp đỡ Sài Gòn cầm cự trong một thời gian mà cũng nhiêu khê vậy à" Ngày 25 tháng Ba, Tổng Thống Ford có gửi cho ông Thiệu một thông điệp thân hữu, nhắc lại rằng chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng rất tiếc là Quốc Hội Hoa Kỳ không chấp thuận việc sử dụng phi cơ Mỹ.
Để trấn an Việt Nam, ngày 28 tháng Ba, Hoa Thịnh Đốn phái Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ, Frederick Carlton Weyand, một vị tướng bốn sao, đến Sài Gòn. Ông Weyand có mặt ở hòa đàm Ba Lê và sau đó trở thành tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam, một chức vụ ông đảm nhiệm cho đến khi quân lính Mỹ hoàn toàn rút khỏi Việt Nam vào cuối tháng Ba năm 1973.
Tôi đã biết ông Fred Weyand trong nhiều năm qua và chúng tôi đã trở thành bạn thân với nhau. Fred thật tình tin tưởng rằng Nam Việt Nam là "Tiền Đồn Thế Giới Tự Do". Sau chuyến đi thăm Sài Gòn, trong một cuộc họp với hai ông Ford và Kissinger, dưới ánh mặt trời California ở Palm Springs hôm 4 tháng Tư, tôi chắc rằng ông đã vận dụng hết tài hùng biện của mình để mô tả tình hình quân sự đen tối và tuyệt vọng của Nam Việt Nam và hết lòng bênh vực cho trường hợp của Nam Việt Nam.
Dĩ nhiên là hoài công, vì tổng thống Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ chẳng còn làm gì được nữa khi Quốc Hội Hoa Kỳ đã khẳng định bác việc chi viện thêm cho Việt Nam Cộng Hòa để tiếp tục cuộc chiến, chưa kể 720 triệu Mỹ kim do Tướng Weyand đề nghị hay ngay cả 300 triệu Mỹ kim hoàn toàn viện trợ kinh tế mà các trợ lý của Bạch Cung đã nghĩ đến. Bằng hữu ở Thượng Viện nói rõ với Tổng Thống Ford là ông sẽ không có lấy một đồng nào cho bất cứ việc gì có tính cách quân sự ở Việt Nam, nhưng trái lại, ông có thể có bất kỳ số tiền nào ông cần để đưa tất cả người Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Như thế, đã có quyết định là chẳng một ai phải chi ra bất kỳ món tiền nào cả cho việc Tổng Thống Ford yêu cầu Quốc Hội cấp 720 triệu Mỹ kim để cứu nguy chính phủ Sài Gòn. Trách nhiệm pháp lý và tinh thần của cuộc giết hại sẽ thuộc về Quốc Hội chứ không phải Tòa Bạch Ốc. Ngoài ra, ai ai cũng thừa biết rằng dù cho với một triệu Mỹ kim thì, về mặt vật chất và nhân sự, Hoa Thịnh Đốn cũng không thể chi viện quân sự và kinh tế thêm kịp thời cho Nam Việt Nam để Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chận đứng được đà tiến của quân lính Bắc Việt. Chỉ còn có một việc hữu hiệu mà Tổng Thống Ford có thể làm được hồi tháng Tư đó của năm 1975 là cho Hoa Kỳ can thiệp quân sự ồ ạt, nhưng đó là một hành động điên rồ và thái quá, không thể nào làm.
Từ khi những trận đánh nhỏ xảy ra trong tỉnh Phước Long hồi đầu năm 1975, ông Thiệu đã chuẩn bị để thử thách Hoa Thịnh Đốn lần cuối cùng và nắm phần chắc là Tổng Thống Ford không còn cách nào khác hơn là xả láng trong ván bài vì người Mỹ. Có thể ông Thiệu đã được thúc đẩy để làm như vậy khi nhớ lại đòn bốc đồng của Tổng Thống Johnson trong việc leo thang chiến cuộc của Mỹ ở Việt Nam. Cũng có thể ông Thiệu hy vọng có một người nào đó ở Hoa Thịnh Đốn sẽ làm một hành động điên rồ, dựa theo một tin đồn đại cho rằng, vào lúc nào đó, ông Nixon có thể điên tiết lên mà bấm nút hạt nhân để kết thúc chiến tranh Việt Nam. Nhưng dĩ nhiên là ông Thiệu hiểu biết rất ít về Tổng Thống Ford, và ông đã sai lầm khi đánh giá quá cao về việc Mỹ muốn tiếp tục đưa người và của vào Nam Việt Nam.


Hy vọng duy nhất của "Minh Lớn" là nối lại quan hệ hữu nghị với phía bên kia, nhưng với ai đây" Những nhà lãnh đạo cấp cao đã tìm cách thực hiện và đã thất bại. Hà Nội không còn trả lời điện thoại nữa, ngoại trừ để tán gẫu chuyện đời. Chỉ còn một vài ngày nữa là tất cả người Mỹ phải ra đi. "Minh Lớn" thấy rõ rằng điều kiện tiên quyết để cho ông có thể làm bất cứ điều gì là phải chấm dứt ngay và một cách triệt để sự hiện diện của Mỹ ở Nam Việt Nam. Vào giờ phút cuối cùng, mối quan tâm trọng đại của Hà Nội vẫn còn vì cho là Hoa Kỳ có thể sẽ bất ngờ can thiệp trở lại bằng cách nào đó.
Đã đến thời điểm mà "Minh Lớn" có một niềm hy vọng có ý nghĩa, hữu lý, và thực tế hay không, không thành vấn đề nữa. Ông là hiện thân cho niềm hy vọng của "Lực Lượng Thứ Ba", của những người khác ở Nam Việt Nam, và thậm chí của một vài viên chức ở Hoa Thịnh Đốn và ở Pháp, là những người đã ôm ấp một mối hy vọng mơ hồ nào đó nên đã thúc đẩy "Minh Lớn" nhận lãnh quyền hành của ông Hương. "Lực Lượng Thứ Ba" sốt sắng tìm cách tạo dựng và quảng bá niềm hy vọng rất cần thiết đó. Những người phụ tá của "Minh Lớn" hối hả gắn huy hiệu mang hình hoa sen nhà Phật lên bục thuyết trình, ngay sau khi ông Hương nói đôi lời chính thức để từ chức. Một hình ảnh nói lên mối hy vọng nặng tính tượng trưng tuyệt đỉnh, và như thế, kết hợp hình thức thi ca và huyền bí. Dĩ nhiên, đem hoa sen nhà Phật làm biểu tượng chính trị là một hành động bất kính. Chẳng khác nào tự thú "nhân danh Trời Phật, con đã làm nên bao nhiêu là tội lỗi!"
Đối với Hà Nội, "Minh Lớn" không phải là một vấn đề đặc biệt mà là mối quan tâm hạng bét. Mục tiêu căn bản nhất và mong đợi từ lâu của miền Bắc trong chiến tranh ở Việt Nam là làm nhụt ý chí và quyết tâm chiến đấu của người Mỹ. Họ đã đạt được điều đó, không phải trên chiến trường, nhưng ở Quốc Hội bên Mỹ. Hồ Chí Minh đã hoàn thành một điều y như thế, hai mươi hai năm về trước, hồi 1954, với Lực Lượng Viễn Chinh Pháp tại Ba Lê, ở Điện Bourbon (Quốc hội Pháp). Vậy mà, khi xe tăng Bắc Việt đã đến cửa ngỏ Sài Gòn, và khi Hoa Thịnh Đốn đã quyết tâm không khi nào can thiệp nữa, "Minh Lớn" vẫn còn cố nuôi hy vọng và cố gắng làm cho người khác hy vọng.
Hy vọng, nhưng với lý do nào và mục đích gì" Có người cho rằng ông hy vọng tránh đổ máu bằng cách tuyên bố Sài Gòn là "thành phố bỏ ngỏ" và đón nhận người Việt Nam của mọi thành phần chính trị. Như thế ai cũng vào được, không cần phải có ai mời mọc hay công bố gì hết. Với đề nghị, "tôi không bắn và anh cũng không bắn tôi". Đó là điều mà những người thân cận của "Minh Lớn" chủ trương. Ông không thể ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chận đứng đà tiến càng ngày càng nguy hiểm của quân lính Bắc Việt. Dù cho tiếng tăm và uy tín của ông trong quân đội Nam Việt Nam vẫn còn, nhiều lắm "Minh Lớn" chỉ có thể kêu gọi quân lính Sài Gòn buông vũ khí thay vì giữ vững tay súng. Đó là điều mà người ta nghĩ rằng ông sẽ làm và có thể làm được.
Còn đề nghị chia sẻ quyền hành với phía bên kia thì sao" Điều đó hơi khó, nếu không phải là khôi hài. Ông Minh chẳng còn thứ gì quyền thế để san sẻ, thậm chí một đồng minh cũng không, và bộ chính trị Hà Nội không có gì cần thiết để chia sẻ với Nam Việt Nam.
Điều có vẻ như được mong đợi là một liên minh giữa "Lực Lượng Thứ Ba" của "Minh Lớn" và Mặt Trận Giải Phóng của Bà Bình - một hy vọng quả thật là khiêm nhường. Đúng là một hy vọng đáng thương tâm. Nhưng nghe được và đứng đắn.
Sự tiêu tan của chính phủ Sài Gòn và ảo tưởng về "hòa hợp hòa giải dân tộc" giữa Mặt Trận Giải Phóng và những lực lượng khác chống đối lại chế độ Sài Gòn lúc nào cũng là chiến lược và mục tiêu bất biến của bộ chính trị VC. Đó là một khái niệm đơn giản nhưng hữu hiệu, đâm ra lại rất thành công, nhờ tất cả các vai, ở địa phương lẫn nước ngoài, đều rất thuộc tuồng. Xuyên suốt bốn năm hòa đàm Ba Lê, lập trường của Hà Nội lúc nào cũng minh bạch và đơn giản liên quan đến các chính phủ Hoa Kỳ và Sài Gòn là "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào". Nay đã đạt được mục đích - Mỹ đã ra đi và chính phủ Sài Gòn không còn nữa - thì hai mục tiêu "liên hiệp" và "hòa hợp hòa giải dân tộc" cũng trở thành lỗi thời. Nhưng, chẳng tốn hao gì khi để cho mọi người nghĩ rằng "Lực Lượng Thứ Ba" của Sài Gòn và Mặt Trận Giải Phóng có thể kết hợp lại trong tinh thần "hòa hợp hòa giải dân tộc".
Thế nên đối với "Minh Lớn", hy vọng như là miếng mồi cho chính cá nhân đương sự mà thôi, và cho những người nào khác muốn tin tưởng ở niềm hy vọng đó, kể cả những ai ở Ba Lê và Hoa Thịnh Đốn. Đại sứ của Pháp và Hoa Kỳ thực sự mong muốn đưa "Minh Lớn" vào chiếc ghế tổng thống càng nhanh càng tốt. Như vậy, niềm hy vọng to tát của "Minh Lớn" là làm thế nào để cho dân chúng tin tưởng rằng Sài Gòn có thể được cứu vãn bằng cách "hòa hợp hòa giải dân tộc", do đó giảm nhẹ được cơn sửng sốt kinh khủng của một Nam Việt Nam thất trận. Đặc biệt là nhằm vào quân lính VNCH để đạt được mục tiêu thực tiễn là làm cho họ buông súng. Một sự khôn khéo thượng thặng theo kiểu Machiavel.
Chế độ tổng thống của "Minh Lớn" còn hy vọng gì nữa đây" Phải chăng họ hy vọng rằng với một sự can thiệp nào đó của quốc tế, họ có thể kết hợp những phe phái Nam Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Giải Phóng và duy trì thực thể Nam Việt Nam dưới dạng nào đó - dĩ nhiên là không có chính phủ Sài Gòn cũ - nhằm xoa dịu miền Bắc Việt Nam thân Liên Xô" Ý niệm đó còn khó chấp nhận hơn hòa hợp hòa giải dân tộc, nhưng nghe vĩ đại và cao thượng. Mặt Trận Giải Phóng sẽ gồm toàn là người Nam Việt Nam để làm đối trọng lại Mạc Tư Khoa. Nhiều người trong giới thân cận của "Minh Lớn" quả thật đã tin tưởng ở kế hoạch hùng tráng đó. Có thể họ cứ giả thuyết là "biết đâu được". Ngành ngoại giao quốc tế tài ba đôi khi có thể tạo ra những chuyện thần tình. (Còn tiếp...)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.