Luật pháp phổ thông – LS Lê Đình Hồ
Hỏi (Bà Trần T.N.T): Tôi lập gia đình được hơn 15 năm, chúng tôi có với nhau một bé trai nay đã hơn 12 tuổi. Bé không được bình thường như những bé khác, vì mỗi khi bé trở chứng cứng đầu thì không ai có thể sai bảo hoặc khuyên nhũ bé được.
Vợ chồng chúng tôi sống ly thân gần cả năm nay. Thỉnh thỏang ông ta về thăm con và yêu cầu tôi hãy để cho ông đưa bé đi chơi vào những ngày cuối tuần. Tôi đã từ chối đề nghị này vì tôi lo lắng cho sự an tòan của cháu, vì trong thời gian ông ta còn sống chung, mỗi lần rượu chè say xỉn là ông ta chữi mắng bé một cách thậm thệ.
Ông ta có nhờ LS gữi một là thư cho tôi và yêu cầu tôi phải để cho ông ta thăm con vào những ngày cuối tuần. Nếu tôi từ chối LS của ông ta sẽ đưa tôi ra tòa.
Xin LS cho biết trong tình huống đó liệu khi ra hầu tòa, tòa có buộc tôi phải để cho ông ta thăm cháu hay không"
Trả lời: Trong vụ Lamport & Lamport [2008] FMCAfam 45, “Hai bên đã đính hôn vào tháng 10.1988 và ly thân vào tháng 11.2006. Từ lúc ly thân, đứa con trai lớn nhất, W, sống với cha, và 2 đứa con trai nhỏ tuổi hơn sống với mẹ” (The parties were married in October 1988 and separated in November 2006. Since the separation, the eldest son, W, has lived with the father, and the two younger sons have lived with the mother).
“Hai đứa con trai nhỏ D và S bị ‘chứng chậm phát triển về trí tuệ’ [bệnh khờ]” (The two younger boys D and S have intellectual disabilities).
Vào ngày 11.5.2007, Tòa đưa ra án lệnh đồng thuận rằng: (1) Người cha co quyền thăm viếng hai đứa con trai nhỏ tuổi vào ngày Thứ Bảy hoặc Chủ Nhật từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều; (2) Người mẹ được quyền nuôi dưỡng 2 đứa bé này; (3) Hai bên đương sự phải đưa căn nhà ra để bán.
“Cùng ngày hôm đó, Tòa đã đưa ra án lệnh rằng các bên đương sự phải tham dự một phiên họp để giải quyết tranh chấp liên hệ đến 2 đứa bé. Tòa cũng đưa ra án lệnh rằng Bản Tường Trình về Gia Đình phải được sọan thảo bởi nhân viên Cố Vấn Gia Đình vào ngày 28.8.2007” (That same day, the Court made orders that the parties were to attend family dispute resolution in respect of the two boys. The Court also ordered that a family Report was prepared by a Family Consultant on 28.8.2007).
“Hai bên đương sự đã tham dự phiên họp để thương thảo vào ngày 7.6.2007. Vào giai đọan đó, cả hai bên ‘đều có luật sư đại diện’ [đều được đại diện về phương diện pháp lý]. Mặc dầu vấn đề của 2 đứa bé chưa được giải quyết, hai bên đương sự đã giải quyết các vấn đề tài chánh của họ. Vào ngày 7.6.2007 hai bên đương sự đã ký án lệnh đồng thuận có hiệu lực rằng:” (The parties attended a conciliation conference on 7.6.2007. Both parties were legally represented at that stage. Although the children’s issues were not resolved, the parties resolved the financial matters between them. On 7.6.2007 the parties entered into consent orders to the effect that:).
“(1) Căn nhà thuộc về hôn phối trước đó sẽ được bán và tiền bán sau khi trừ chi phí sẽ được chia: (a) $40,000 cho thân phụ của người vợ; và (b) phần còn lại được chia đều cho 2 bên đương sự” (The former matrimonial home would be sold and the net proceeds of sale would be distributed: (a) as to $40,000 to the wife’s father; and (b) the balance would be divided equally between the parties).
“(2) Luật sư của người chồng sẽ sọan thảo hợp đồng bán nhà” (The husband’s solicitors would prepare the contract for sale).
Câu chuyện của hai ông bà Lamport còn liên hệ đến nhiều vấn đề kể cả sự phân chia tài sản. Tuy nhiên, trong phạm vi câu hỏi được nêu lên trong thư, chúng tôi chỉ xin đề cập đến vấn đề liệu người chồng có được quyền thăm con khi người vợ cáo giác rằng người chồng có những lời lẽ và hành động xúc phạm đến các đứa con khuyết tật này.
Mặc dầu có án lệnh đồng thuận cho phép người cha được thăm con một tuần một lần nhưng người vợ vẫn muốn người cha không được thăm hai đứa con bị bệnh trí tuệ chậm phát triển.
“Người mẹ vẫn cho rằng từ lúc hai bên ly thân, hai đứa bé tiếp tục bộc lộ ước muốn không muốn gặp cha chúng. Trong tờ khai hữu thệ vào ngày 2.11.2007 bà ta khai rằng người cha đã bạo hành đối với con cái trong thời gian hôn phối và bà ta sợ rằng chúng sẽ bị nhiều rủi ro hơn từ người cha so với những đứa bé khác vì bệnh chậm phát triển về trí tuệ của chúng” (The mother maintains that the two boys have, since the parties separated, continually expressed the wish not to have contact with their father. She claimed in her affidavit of 2.11.2007 that the father had been violent towards the children during the marriage and she feared that they were at greater risk from him than other children would be due to their intellectual disabilities).
“Người cha nộp tờ khai hữu thệ vào ngày 22.10.2007 thú nhận là chỉ dùng những lời lẽ xúc phạm đối với con cái, nhưng khai rằng ông ta đã tham dự khóa học dằn sự nóng giận. Ông khai rằng người mẹ đã không cho phép các con gần gũi ông ta” (The father filed an affidavit on 22.10.2007 admitting being verbal abusive to the children only, but claiming that he he has attended an anger management course. He claims that the mother has refused to allow the children to spend time with him).
“Đứa con trai lớn của hai bên đương sự W đã khai trong tờ khai hữu thệ nộp vào ngày 22.10.2007 rằng người mẹ châm biếm nó. Cháu đã khai rằng người cha đã thay đổi từ lúc hai bên ly thân và muốn gần gũi hai em của cháu một ngày mỗi tuần” (The parties’ adult son W deposed in an affidavit filed on 22.10.2007 that the mother was sarcastic towards him. He deposed that his father had changed since the parties separated and wanted to spend one day a week with his two younger brothers).
Bả tường trình của viên chức cố vấn gia đình cho thấy rằng khi phòng vấn 2 em bé bị chứng tật trí tuệ chậm phát triển thì hai em cùng anh cả là W. “Bé D đã nói với viên chức cố vấn gia đình rằngbé thích gần gũi cha của bé nhưng không muốn ở qua đêm với ông ta, vì bé nói rằng bé cảm thấy không an tòan. Bé giải thích rằng điều này vì cha của bé đã đe dọa, đánh và đá bé trong quá khứ và bé sợ là ông ta có thể làm điều này lại” (The child D told the Family Consultant that he liked to spend time with his father but would not want to stay with him overnight, as he said that he did not feel safe. He explained that this was because his father had threatened, hit and kicked him in the past and he is afraid that he may do this again).
“Đứa con trai nhỏ tuổi hơn, S, đã nói rằng bé không muốn gần gũi cha vì những gì cha đã gây ra” (The younger boy, S, said that he did not want to spend time with his father because of what he has done).
Cuối cùng Tòa đã cho phép người cha được thăm D mỗi tuần một lần. Tuy nhiên, Tòa đã không cho phép người cha thăm S vì đó là ước muốn của bé.
Dựa vào phán quyết vừa trưng dẫn bà có thể thấy được rằng nếu chồng của bà có những lời lẽ hoặc hành động làm cho cháu lo sợ cho sự an tòan của chính bản thân cháu thì điều mà chồng bà đòi hỏi sẽ khó có thể thực hiện được.
Việc này cũng còn tùy thuộc vào bản tường trình và lời đề nghị của chuyên viên cố vấn gia đình, nếu chồng bà la rầy cháu nhưng cháu vẫn mến thương cha thì chắc chắn rằng tòa sẽ cho phép chồng bà thăm cháu vào những ngày cuối tuần như ông ta đề nghị. Ngược lại nếu cháu sợ hãi và không muốn gặp cha thì tòa sẽ không cho phép cha của cháu thăm cháu như ông ta đã đề nghị. Tòa còn căn cứ vào nhiều yếu tố khác trước khi đưa ra quyết định là chồng bà có được quyền thăm con trong trường hợp này hay không.
Nếu bà còn thắc mắc xin điện thọai cho chúng tôi để được giải đáp thêm.