Hôm nay,  

Sổ Tay Mậu Thân: 1 Quân Đội Bị Lãng Quên

15/03/200800:00:00(Xem: 11461)

Trận Mâu Thân 68 là chiến công anh dũng nhất của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Nhưng...

Biến cố Mâu Thân 68 đã in hằn vào tâm trí người Mỹ qua một số hình ảnh méo mó.

Sự tự tin có vẻ ngược ngạo của Đại tướng William Wetsmoreland vào cuối năm 1967, rằng tình hình có cải thiện và đoạn kết đã bắt đầu. Sự bàng hoàng của khán giả Mỹ khi thấy Sứ quán Hoa Kỳ tại Saigòn bị đặc công Cộng sản tấn công. Lời thông báo của Walter Conkrite trên đài CBS, rằng Mỹ đã thất trận tại Việt Nam. Nỗi tuyệt vọng của Tổng thống Johnson khiến ông không ra tái tranh cử vào tháng 11. Phong trào phản chiến được mùa gây loạn trong các thành phố Mỹ. Dân chúng Chicago nổi dậy nhân Đại hội đảng Dân chủ trước cuộc tranh cử tổng thống....

Những hình ảnh ấy báo hiệu sự tháo chạy thảm nhục của Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, và sẽ còn ám ảnh nước Mỹ rất lâu sau này.

Nếu còn nhớ lại vài chi tiết lặt vặt, người Mỹ có thể biết là ngay giữa lúc giao tranh ác liệt ấy tại Việt Nam, thì một đại trí thức, kinh tế gia và học giả của Hoa Kỳ đã có lời tiên đoán... tuyệt vời nhất.

Giáo sư John Kenneth Galbraith của Đại học Harvard, nguyên Đại sứ của Tổng thống Kennedy, tuyên bố hôm 16 tháng Hai năm 1968 là trong vài tháng tới, từng đơn vị lớn của Quân lực Nam Việt Nam sẽ hoặc biến vào rừng, hoặc đi theo Việt Cộng!

Tuyệt vời ở sự lầm lạc của trí tuệ và xuẩn động của nhận thức. Sau dó, ông cũng còn đề nghị Johnson nên nhường đất cho Cộng sản để khuyến khích họ bước vào bàn hội nghị. Tồi vận động cho ứng cử viên phản chiến Eugene McCarthy của đảng Dân chủ...

Màn khói đặc quánh trong não trạng khiến người Mỹ không thấy ra hai sự kiện có thật, ở tại chỗ.

Thứ nhất, sức chiến đấu anh dũng của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà khi bị tấn công vào lúc bất ngờ nhất đã khiến phe Cộng sản bị tổn thất nặng. Họ phải mất bốn năm mới được hồi phục để mở cuộc tấn công vào năm 1972. Khi Hoa Kỳ đã nản chí.

Thứ hai, người dân miền Nam không hề nổi dậy theo cán binh Cộng sản để lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. "Tổng khởi nghĩa" của Cộng sản chỉ là một cuộc tổng tàn sát. Với hậu quả bi thảm nhất là tại Huế, sau 24 ngày chiếm đóng: gần bảy ngàn sinh linh thường dân - người già, phụ nữ, con trẻ - đã bị sát hại. Trong đó, mấy ngàn người bị chôn sống.

Bốn mươi năm sau, màn khói đen vẫn đặc quánh trong đầu của rất nhiều người Mỹ, mỗi khi họ mơ hồ nghe nói đến "Mậu Thân 68".

Những người Mỹ chỉ huy chiến tranh tại Việt Nam thời ấy không hiểu gì về cuộc chiến trong khi lãnh đạo chính trị ở nhà lại còn mù mờ hơn mà vẫn đòi điều khiển từ xa.

Nhưng bi thảm nhất là truyền thông Hoa Kỳ.

Đã ít người theo dõi sự việc tại chỗ - so với công sức Hoa Kỳ đang bỏ ra cho cuộc chiến - họ lại không am hiểu về tác chiến và hình thái chiến tranh toàn diện ở Việt Nam. Họ càng không muốn vất vả theo dõi và tường thuật cuộc chiến bên cạnh các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà. Nguy hiểm và cực nhọc quá! Vì sự nông cạn so với ảnh hưởng rất lớn, họ là những người đầu tiên kết luận là cuộc chiến đã tàn. Sau đó, làm mọi cách cho cuộc chiến phải tàn, qua sự tường thuật cho dân Mỹ nản chí bỏ cuộc!

Bốn mươi năm sau, những vành khăn tang hay mộ chí của nạn nhân vụ thảm sát tại Huế đã bị Cộng sản vứt xuống đất, bị đạp lên trên trong những bước diễn hành mừng "Chiến thắng Mậu Thân" của họ. Và cái tội tàn sát lương dân vẫn bị phủ lấp dưới những cuộc hội thảo gọi là khoa học, một khoa học của sự bất lương vô đạo. Trong khi ấy, truyền thông Mỹ vẩn chẳng nói gì. Họ tiếp tay chôn sống nạn nhân tại Huế!

Nhưng không phải người Mỹ nào cũng nông nổi như vậy.

Hai mươi năm trước, nhà báo Peter Braestrup để công nghiên cứu xem truyền thông Hoa Kỳ đã tường thuật sai lạc thế nào về trận Mậu Thân 68 khiến Hoa Kỳ lại tự chuyển thắng thành bại. Kết quả nghiên cứu trong cuốn "Big Story - How the American Press and Television Reported and Interpreted the Crisis of Tet in Vietnam and Washington" là một tài liệu cần tham khảo.

Đầu năm nay, chúng ta có một cuốn sách khác.

Giáo sư Andrew Wiest về Lịch sử của Đại học Southern Mississippi vừa mới cho xuất bản cuốn "Vietnam's Forgotten Army - Heroism and Betrayal in the Army of the Republic of Vietnam".

Khởi đi từ kinh nghiệm cá nhân của hai sĩ quan trẻ, có đầy chiến công anh dũng trong Sư đoàn I của Việt Nam Cộng hoà, ông nghiên cứu sâu rộng hơn về sự hình thành của Quân đội Quốc gia Việt Nam rồi Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Và khám phá ra những sai lầm của Hoa Kỳ khi yểm trợ Quân lực Việt Nam trong một hình thái chiến tranh đa diện và quá phức tạp đối với người Mỹ và trong bối cảnh quá nhiễu nhương của lãnh đạo Việt Nam.

Hậu quả là một quân đội chiến đấu rất can trường cho người dân miền Nam đã bị bỏ rơi và đành thất trận, rồi bị lãng quên dần.... Một quân lực có những người đã chiến thắng đầy xứng đáng mà cuối cùng bị bức tử và phải đầu hàng.

Nếu người Mỹ muốn hiểu rõ hơn về chiến tranh và riêng về chiến tranh Việt Nam thì nên tham khảo tài liệu này.

Riêng với người Việt Nam, cuốn sách là một nhắc nhở bi hùng về một quân đội đã chiến đấu dũng cảm như thế nào mà sau cùng lại bị đẩy vào đường cùng, để rồi tan rã...

Một trong hai nhân vật chính trong cuốn sách hiện còn sống với chúng ta, ở tại Hoa Kỳ. Đó là Trần Ngọc Huế.

Vị sĩ quan Hắc Báo từng anh dũng bảo vệ được Bộ Chỉ huy Sư Đoàn I trong trận Mậu Thân tại Huế cuối cùng đã bị bắt trong trận Lam Sơn 719 tại Hạ Lào khi Quân lực Cộnh hoà hết được các đơn vị Mỹ yểm trợ. Ông bị đem ra Bắc và chỉ gặp lại các bạn đồng ngũ khi chiến tranh kết thúc năm 1975. Trong trại tập trung cải tạo.

Ông chỉ được thả vào năm 1983.

Trong suốt giai đoạn tù đầy - và bị chiêu dụ bằng mọi thủ đoạn - mà nhất quyết không đầu hàng để làm công cụ tuyên truyền cho Cộng sản, Trần Ngọc Huế không biết là có một sĩ quan vẫn nhớ đến mình. Một sĩ quan cố vấn của Quân lực Mỹ năm xưa.

Trung tá Dave Wiseman không quên một người chiến hữu anh hùng tại miền Trung và tìm đủ cách thăm hỏi tin tức. Mãi đến 1990 mới được những người Việt di tản tại Mỹ cho biết là Trần Ngọc Huế còn sống, cùng gia đình đang vất vưởng tại Huế.

Ông Wiseman tích cực vận động khi chương trình H.O. vừa khởi sự để đón người chiến hữu của mình và cùng gia đình qua Mỹ...

Trong cuộc hội thảo "Sự Thật Mậu Thân" do Việt Báo tổ chức vào cuối tháng này, Trần Ngọc Huế sẽ là một thuyết trình viên, bên Đại sứ Bùi Diễm và Đại tá Hoàng Mai Việt.

Đây cũng là một cách chúng ta suy niệm những bài học của cuộc chiến Việt Nam - nhìn từ phía Hoa Kỳ, và từ thảm kịch muôn mặt của người Việt.

Một bước xót xa mà cần thiết để thấy là dân ta không hèn - và có trí nhớ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.