Hôm nay,  

Cứu Nguy Toàn Cầu

2/26/200900:00:00(View: 5762)

Cứu nguy Toàn cầu

Nguyễn Xuân Nghĩa & RFA
...điều kiện ngặt nghèo của IMF lại gây hậu quả bất ổn chính trị...
Ngày 22 vừa qua, từ cả hai góc Âu-Á của địa cầu, các quốc gia tới tấp hội họp để tìm giải pháp cứu nguy kinh tế. Đông Á có hội nghị các Bộ trưởng Tài chính của khối ASEAN +3 ở Phuket tại Thái Lan, với đề nghị thành lập quỹ dự trữ ngoại tệ chung cho 13 quốc gia. Tại Berlin thuộc Đức, lãnh đạo sáu nước Âu châu trong nhóm G-20 thì đề nghị cải tổ hệ thống tài chính toàn cầu và cấp thêm vốn hầu Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF có thể cứu nguy kinh tế Âu Châu. Mục Diễn đàn Kinh tế đài RFA tìm hiểu về các cuộc vận động ấy qua phần trao đổi cùng nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa, do Việt Long thực hiện sau đây...
Hỏi 1: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Ngày Chủ nhật 22 vừa qua đã có hai hội nghị cùng tiến hành tại Á châu và Âu châu nhằm tìm ra giải pháp cứu nguy kinh tế toàn cầu. Đó là thứ nhất hội nghị cấp Bộ trưởng Tài chính của 10 quốc gia thuộc Hiệp hội ASEAN và ba đối tác Đông Bắc Á là Nhật Bản, Trung Quốc và Nam Hàn gọi là khối ASEAN+3. Thứ hai là hội nghị cấp lãnh đạo sáu cường quốc kinh tế Âu châu nhằm thống nhất hành động trước thượng đỉnh của nhóm G-20 tới đây tại London.
Dư luận theo dõi các nỗ lực ấy từ cả hai góc Âu Á của địa cầu trước những chấn động tài chính hiện nay nên tiết mục chuyên đề của chúng ta đề nghị ông trình bày cho bối cảnh của vấn đề trước khi ta có thể biết thêm về nội dung và kết quả.
- Trước hết, xin hãy nói về hội nghị các Bộ trưởng Tài chính Á châu tại Phuket của Thái Lan. Tháng Bảy năm 1997, biến động hối đoái tức là ngoại hối tại Thái Lan đã gây khủng hoảng cho toàn khu vực trong các năm 1997-1998. Rút kinh nghiệm ấy, Nhật Bản đề nghị giải pháp ngăn ngừa là hợp đồng giao dịch ngoại tệ giữa hai nước, gọi là "currency swap". Đó là Sáng kiến Miyasawa, là tên ông Bộ trưởng Tài chính Nhật thời đó. Qua tháng Năm năm 2001, các nước Đông Nam Á khai triển sáng kiến ấy thành Sáng kiến Chiang Mai, tên địa danh của hội nghị tại Thái Lan nhằm mở rộng các hợp đồng giao dịch giữa các nước ASEAN với ba đối tác Đông Á là Nhật Bản, Trung Quốc và Nam Hàn. Khi vụ khủng hoảng tài chính bùng nổ năm ngoái, các nước Đông Á đã nâng định mức hợp tác lên 83 tỷ đô la. Tại hội nghị Phuket tuần qua, họ còn tiến xa hơn, đó là tăng mức hợp tác thêm 50% lên tới 120 tỷ đô la và nghiên cứu việc thành lập một quỹ cứu trợ đa phương bằng ngoại tệ cho toàn khu vực thay vì là qua từng hợp đồng song phương giữa hai quốc gia với nhau. Đây là một tiến trình xoay chuyển kéo dài từ cả chục năm...
Hỏi 2: Đó là về phía Á châu. Còn về Âu châu thì thượng đỉnh tuần qua tại Berlin đã tính sao"
- Tại thượng đỉnh Berlin thì lãnh đạo Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha và Hoà Lan muốn tiến tới một lập trường thống nhất của các nước Âu Châu trong nhóm G-20 về hai đề mục chính. Thứ nhất, phải tăng cường kiểm soát các doanh nghiệp đầu tư tài chính như "quỹ đối xung" - hedge funds - để tránh những rủi ro quá lớn trên thị trường toàn cầu. Thứ hai, tăng vốn gần gấp đôi cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, khoảng 250 tỷ đô la, hầu định chế này có thể cấp cứu các nước gặp nạn tại Âu Châu, nhất là các nước "tân hưng", mới nổi, của Đông Âu.
- Nhìn như vậy thì Đông Á lo cho hiệu ứng khủng hoảng cho một số quốc gia Á châu, còn Âu Châu thì nghĩ đến hậu quả dội ngược từ Đông Âu về Tây Âu. Nhưng cả hai phía đều đang muốn tiến tới một giải pháp phối hợp đồng bộ giữa các nước với nhau. Tại Đông Á, khối ASEAN+3 chuẩn bị sáng kiến cho thượng đỉnh ASEAN sắp tới tại Han Nin gần Bangkok, nếu như Thái chưa loạn vì tranh chấp nội bộ. Sau đó, họ trình bày đề nghị tại thượng đỉnh tháng tới của nhóm G-20 và hội nghị tại Bali thuộc Indonesia vào tháng Năm. Tại Âu Châu, các nước cũng sẽ đưa dự án này vào nghị trình của thượng đỉnh nhóm G-20. Đó là về bối cảnh chung.
Hỏi 3: Đi vào cụ thể thì đề nghị của phía Đông Á gồm có những gì"
- Từ nguyên thủy, ba nước đối tác Đông Bắc Á của khối ASEAN tại Đông Nam Á đã mở rộng thể thức giao dịch ngoại tệ bằng loại hợp đồng song phương là currency swap. Theo thể thức này thì hai quốc gia cam kết với nhau là nếu đồng bạc xứ này bị mất giá và có thể gây khủng hoảng ngoại hối thì nước kia sẽ cung cấp ngoại tệ theo một số điều kiện đôi bên định trước để ngừa biến động. Đó là sáng kiến của Nhật về sau được các nước khai triển thêm, với số lượng cam kết song phương gia tăng liên tục, mức cuối là hơn 80 tỷ vào mùa Thu năm ngoái.
- Bây giờ, khi nhiều nước Đông Á như Nam Hàn, Malaysia hay Indonesia đều bị chấn động vì đồng bạc mất giá quá nhanh, họ nghĩ đến việc nâng cao định mức lên 120 tỷ. Nhưng tại Phuket tuần rồi, các nước Đông Á không chỉ nghĩ đến lượng là tăng số tiền cam kết với nhau, mà còn tính đến phẩm, là lập ra quỹ cứu trợ ngoại hối cho toàn khu vực, theo đó xứ nào bị nạn thì sẽ được trợ giúp. Về phần đóng góp cho quỹ này thì trên nguyên tắc Nhật Bản, Trung Quốc và Nam Hàn sẽ châm vào 80%, năm xứ phát triển nhất ASEAN, là Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines và Thái Lan, thì mỗi nước sẽ tham gia khoảng ba tỷ rưỡi đô la. Năm nước còn lại là  Brunei, Cam Bốt, Lào, Miến Điện và Việt Nam sẽ chung nhau gánh sáu tỷ rưỡi sau cùng. Riêng Thái Lan còn muốn đề nghị trị giá quỹ này là 350 tỷ đô la nhưng đấy mới chỉ là đề nghị thôi.


Hỏi 4: Nếu phân tích kỹ thì kế hoạch cấp cứu Đông Á này có hy vọng thành công hay không"
- Tổng sản lượng GDP của 13 quốc gia Đông Á đó lên tới 10 ngàn tỷ đô la một năm, sau 14 ngàn tỷ của kinh tế Mỹ và 15 ngàn tỷ của khối Âu Châu. Rút tỉa bài học khủng hoảng từ thời 1997, các nước đều lập khối dự trữ ngoại tệ rất cao. Ba nước ngoài ASEAN hiện có tới hơn ba ngàn tỷ đô la, kể thêm lượng tiền của 10 nước ASEAN thì cũng là đáng kể. Kinh nghiệm thứ hai là khi bị khủng hoảng mà cần Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF cấp cứu thì điều kiện ngặt nghèo của quỹ này lại gây hậu quả bất ổn về chính trị, cho nên đề nghị của Đông Á thực sự là giải pháp trợ giúp lẫn nhau mà không bị những ràng buộc khắt khe như của quỹ IMF. Với hoàn cảnh cạn kiệt thanh khoản hiện nay của nền kinh tế Tây phương, là Mỹ và Âu Châu, thì Á Châu có dư tiền đối phó. Vì vậy nội dung cấp cứu Đông Á còn hàm ý tách rời khỏi sự chi phối của IMF và các nước Âu-Mỹ.
- Tuy nhiên, và đây là mặt trái của vấn đề, hàng ngày, số giao dịch ngoại hối của các nước lên tới từ ngàn rưởi đến một ngàn sáu trăm tỷ đô la. So sánh thì quỹ dự trữ 120 thật ra rất nhỏ. Nếu chỉ một vài nước bị khủng hoảng về ngoại tệ thì còn cứu được, chứ cả khối mà bị chấn động thì 120 tỷ quả là không đủ và càng giàng với nhau thì càng dễ chết chìm với nhau.
- Ngoài ra, từ thể thức hợp tác song phương với các hợp đồng đổi chác ngoại tệ gọi là currency swap tới một thể thức đa phương, các nước Đông Á phải mất thời giờ nghiên cứu thể thức áp dụng là chuyện không dễ phối hợp. Chẳng hạn, Philippines thì dè dặt với sáng kiến đó vì đang chờ đợi được Ngân hàng Thế giới và IMF cứu trợ với 10 tỷ đô la. Cho nên đây là dự án không dễ thành hình ngay, khi mà khủng hoảng đã de dọa nhiều nước trong cuộc.
Hỏi 5: Bước qua Âu Châu thì đề nghị cụ thể của các nước Âu Châu là gì"
- Các nước mạnh nhất Âu Châu thì muốn tiến tới một lập trường thống nhất cho toàn khối trước thượng đỉnh G-20 vào ngày hai tháng Tư tới đây tại London. Nhóm G-20 này gồm 19 quốc gia có trọng lượng nặng nhất về kinh tế, cộng thêm Liên hiệp Âu Châu mới ra con số 20.
- Nếu các nước Đông Á e ngại khủng hoảng ngoại hối bùng nổ tại Nam Hàn hay Đông Nam Á thì về phần Âu Châu, các nước Tây Âu lại sợ khủng hoảng bùng nổ từ các nước "tân hưng" mới nổi từ Đông Âu sẽ dội về hệ thống ngân hàng Tây Âu. Vì vậy, họ đề nghị tăng cường kiểm soát thị trường đầu tư và tài trợ trong tương lai nhưng ý kiến chính là cấp thêm vốn cho quỹ IMF có thể kịp thời cấp cứu các nước bị nạn. Nếu không, từng nước Tây Âu và nhất là Đức, sẽ phải nhảy vào trước khi khủng hoảng lan rộng hơn. Đề nghị tăng viện cho IMF vì vậy dễ được các nước ủng hộ vì cho tới nay định chế này đã thực tế giăng lưới cấp cứu nhiều nước trong cuộc, như Hungary, Iceland, Latvia, Serbia và nhất là Ukraine. Nói cho dễ hiểu thì các nước Âu Châu muốn bơm thêm nước cho định chế chữa cháy là IMF.
Hỏi 6: Nhưng liệu định chế này có khả năng chữa lửa hay không"
- Về kinh nghiệm, IMF có thừa khả năng miễn là họ rút tỉa được bài học của những liều thuốc đổ bệnh trong quá khứ như đòi tăng lãi suất, giảm chi hay tư nhân hoá hệ thống sản xuất. Chính vì liều thuốc đổ bệnh ấy mà Đông Á e ngại và lập ra định chế cấp cứu khác là sáng kiến họ đưa ra tuần qua. Lồng bên dưới, Nhật Bản hay Trung Quốc và nhiều xứ Đông Á khác cũng muốn nhân dịp này giảm bớt vai trò quá mạnh của Hoa Kỳ và Âu Châu trong tổ chức IMF.
- Về khả năng tài chính thì IMF hiện đang tung tiền cấp cứu chín quốc gia, trong đó có sáu nước Âu Châu và thật sự đang có nỗ lực gây vốn, ở vào khoảng 140 tỷ đô la tính đền tuần qua. IMF quả là đang cần thêm tiền và cần sớm để cấp cứu nhiều nền kinh tế Đông Âu đang bị nguy cơ khủng hoảng. Cuối cùng thì việc tăng vốn đó có hy vọng thành công vì các nước Âu Châu đều lo sợ cháy nhà từ hàng xóm sẽ gây họa cho mình.
Hỏi 7: Suốt giai đoạn ấy, khi khối Á Châu và Âu Châu tới tấp họp hành, người ta không nghe nói gì đến Hoa Kỳ. Trong vụ khủng hoảng này, Hoa Kỳ có thể làm được gì để cấp cứu xứ khác và nhân đó gia tăng ảnh hưởng của mình"
- Hoa Kỳ gây thất vọng lớn vì nội bộ còn bất định về vấn đề riêng, từ kế hoạch kích thích kinh tế tới chương trình cứu trợ gia cư hay kỹ nghệ xe hơi Mỹ và việc tiết giảm bội chi ngân sách vì tăng chi để kích cầu kinh tế. Tuần trước, nhân dịp Ngoại trưởng Hillary Clinton thăm viếng Jakarta, bà Bộ trưởng Tài chính Indonesia gợi ý với Mỹ là nên ký kết một hợp đồng đổi chác ngoại tệ để cứu nguy đồng rupiah của xứ này mà chưa thấy có trả lời. Một dự án vài tỷ đô la thật ra không lớn và cũng có khả năng cấp cứu giới hạn nhưng ít ra chứng tỏ là Hoa Kỳ quan tâm đến nỗi lo của Đông Á trong khi Tây Âu đang lo về Đông Âu. Vậy mà chưa thấy lãnh đạo Hoa Kỳ chú ý đến chuyện này. Ta sẽ phải theo dõi xem bao giờ Hoa Kỳ sẽ quan tâm đến chuyện này.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.