Hôm nay,  

Thông Điệp Nobel Hòa Bình

15/12/200900:00:00(Xem: 6619)

Thông Điệp Nobel Hòa Bình


Vũ Linh

...tăng quân để bảo vệ cuộc triệt thoái trước mùa tranh cử năm 2012...

Đầu tháng 12, TT Obama bay vù qua Na Uy, dừng chân tại đây chưa đầy 48 tiếng đồng hồ để nhận giải Nobel Hòa Bình 2009. Thiên hạ chờ xem tổng thống sẽ nói gì khi nhận giải này, vì ai cũng biết, kể cả chính tổng thống, là ông chưa có một thành tích gì xứng đáng để nhận giải này.
Và TT Obama đã đọc một bài diễn văn dao to búa lớn, cực kỳ bóng bẩy.
Việc tiếp nhận bài diễn văn quan trọng này đã diễn biến đúng theo dự đoán: “phe ta” phủ phục xuống để tung hô, “phe địch”  xúm vào chê bai.
Nữ ký giả cấp tiến hàng đầu Ruth Marcus của Washington Post dĩ nhiên là đoạt giải quán quân. Dưới tựa đề “Diễn văn Nobel xuất sắc của Obama” (Obama’s brilliant Nobel speech), bà ca tụng TT Obama đã can đảm nói đến “sự thật phũ phàng là chúng ta sẽ không thể xóa bỏ tranh chấp bạo lực trong thế hệ chúng ta. Sẽ có lúc các nước - hành động riêng rẽ hay qua hợp tác với nhau - thấy rằng việc dùng võ lực chẳng những cần thiết mà còn được chấp nhận là có tính đạo đức”.
Bà Marcus kết luận là bài diễn văn chẳng những trình bày cái nhìn tổng quát của TT Obama về hiện tình thế giới, mà cũng chứng minh TT Obama đã trưởng thành nhiều trong chức năng tổng thống.
Ký giả Fareed Zakaria của Newsweek cũng lập luận tương tự như bà Marcus, tung hô tính quan trọng của bài diễn văn vì nó phản ánh cái nhìn “vừa thực tế vừa lý tưởng” của TT Obama. Ông nhấn mạnh câu tuyên bố của TT Obama: “mở mắt nhìn cho rõ ràng, chúng ta có thể hiểu được là sẽ có chiến tranh, và sẽ phải cố gắng tranh thủ cho hòa bình”.
Nữ ký giả Ellen Ratner viết trên FoxNews khen ngợi TT Obama là người có “viễn kiến sâu sắc, hiểu được tính phức tạp của nhân loại cũng như của chiến tranh, hòa bình, tốt và xấu”.
Không biết quý độc giả nghĩ sao, riêng kẻ viết này thấy thật đáng ngạc nhiên.
Bất cứ người nào có một chút hiểu biết tối thiểu về lịch sử nhân loại cũng có thể ý thức được loài người từ ngày khai thiên lập địa cho đến giờ đã trải qua hàng vạn cuộc tranh chấp bạo động, và vạn thiên niên nữa cũng sẽ còn tranh chấp bạo động tiếp tục. Có lẽ chỉ những trẻ em ngây thơ nhất mới tin rằng nhân loại, nhất là trong thế hệ hiện tại, sẽ có thể “sống chung hòa bình” và không còn tranh chấp gì nữa. Cái mô thức nhân loại sống chung hòa bình chẳng có gì mới lạ, mà đã được các triết gia chính trị thuộc loại sống trong ảo tưởng đề xướng từ ngày nhân loại biết… đánh nhau! Gần chúng ta nhất là các triết gia Mác-xít cũng đã mang bánh vẽ này chiêu dụ những người dễ tin để thổi lên tinh thần phản chiến... ở bên kia chiến hào.
Sự thật là cái thế giới đó chưa bao giờ đến với nhân loại, và có nhiều hy vọng sẽ chẳng bao giờ đến.
Nếu đúng như bà Marcus nhận định, phải cần đến một “tổng thống đã trưởng thành” của một đại cường, hay như Zakaria ca tụng, phải mở mắt nhìn cho rõ, mới ý thức được chuyện không còn chiến tranh trong thế hệ này là ảo tưởng, thì chúng ta quả có lý do để lo sợ không biết đến chừng nào thì Đấng Tiên Tri của chúng ta mới trưởng thành để đối phó với những vấn đề khúc mắc hơn như cải cách y tế, phục hồi kinh tế, tạo công ăn việc làm cho thiên hạ, tiêu diệt nạn khủng bố, v.v…
Bình tâm bỏ qua những tung hô của “phe ta”, bài diễn văn này là một diễn văn tiêu biểu cho chính trị gia Barack Obama: một diễn văn “ba phải” muốn thoả mãn tất cả mọi khuynh hướng. Không chấp nhận chiến tranh, nhưng cũng có những lúc cần phải đánh nhau, cần phải dùng võ lực để chống đỡ những kẻ ác, hung tàn. Lý luận kiểu này, nghĩ cho cùng, có gì mới lạ" Có gì xuất chúng" Có gì trưởng thành" Hoặc giả các ký giả “phe ta” này đã đánh giá Obama quá thấp, nên chỉ cần ông này nói ra nhận định sơ đẳng này là đã trở thành xuất chúng và trưởng thành rồi"
Có một ký giả phe ta ca tụng TT Obama đã khôn khéo tránh mắc vào cái bẫy của Ban Giám Khảo giải Nobel khi họ tặng ông giải thưởng với ý đồ cột tay ông để lôi ông ra khỏi Iraq và Afghanistan, và ông đã phớt lờ, để quyết tâm đáp ứng nhu cầu tăng quân tại Afghanistan. Nhận định như vậy có thể đúng, nhưng chắc New York Times sẽ không đồng ý khi báo này cho rằng chiến lược tăng quân của TT Obama thật ra chỉ là để “quản lý một sự thất bại” (managing a failure), hay nói cách khác, tăng quân để bảo vệ cuộc triệt thoái trước mùa tranh cử năm 2012.
***
Thật ra, cái “vũ trụ quan” ngây ngô của TT Obama tuy đáng lo ngại nhưng không là điều đáng ngạc nhiên. Đó chính là vũ trụ quan chung của hầu hết các tổng thống Dân Chủ cận đại, phản ánh một cái nhìn rất lý tưởng, nhưng cũng thật xa rời thực tế trên các quan hệ quốc tế, để chú tâm vào các kế hoạch cải tổ nội bộ vĩ đại, đã đưa đến không ít tai họa cho thế giới nói chung, và nước Mỹ nói riêng.


Bắt đầu từ TT Roosevelt với ưu tiên giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế thập niên ba mươi, trong khi lửng lơ đối với sự lớn mạnh của các chế độ phát-xít và quốc xã tại Âu Châu và Á Châu. Thái độ này có thể đã gửi một thông điệp sai lầm, khiến Đức-Ý-Nhật hung hăng gây ra thế chiến thứ hai. Phải đợi đến lúc Nhật ra tay đánh Trân Châu Cảng thì Mỹ mới bị bắt buộc phải nhẩy vào cuộc chiến. Rồi đến TT Truman, một phó tổng thống tầm thường nhẹ ký của TT Roosevelt, đã khiến Bắc Hàn, Mao và Stalin đánh giá thấp, để rồi tung quân xâm chiếm Nam Hàn.
Qua đến TT Kennedy với cố gắng thực hiện chương trình vĩ đại Biên Cương Mới (New Frontier), khiến Tổng Bí Thư Khruschev lượng giá như “tay mơ” trên phương diện quan hệ quốc tế, đưa đến cuộc thử lửa Nga-Mỹ tại Cuba, và quyết định của khối cộng sản Nga-Tầu-Bắc Việt khai sinh ra Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam năm 1961 để cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam.
TT Johnson tiếp tục mục tiêu cải tổ xã hội với chương trình Đại Xã (Great Society) và các biện pháp bành trướng dân quyền cho dân da màu tại Mỹ, trong khi miễn cưỡng đối phó với cuộc chiến tại Việt Nam theo chiến lược “đánh cầm hơi để tránh bị thua” chứ không phải đánh để thắng, khiến cuộc chiến ngày một leo thang, đưa đến thất bại cuối cùng năm 1975.
TT Carter tiếp tục truyền thống “chủ hòa” đối ngoại để tập trung nỗ lực vào các chương trình cải cách nội bộ. Chính sách của vị tổng thống này đã đưa nước Mỹ vào thời kỳ suy yếu nhất trong lịch sử Mỹ: nước Mỹ bị mất một loạt đồng minh lâu đời như Iran (mất vào tay khối Hồi giáo quá khích, tiền thân của các nhóm cực đoan sau này), Nicaragua và Afghanistan (mất vào tay khối cộng sản), Phi Luật Tân, và kênh đào Panama, trong thời gian vỏn vẹn bốn năm làm ông Carter tổng thống. Điều đáng nói là TT Carter đã hoàn toàn thụ động, không dám làm gì trước những thất bại liên tục từ mọi phía. Trong khi đó, những cố gắng cải tiến các vấn đề kinh tế xã hội cũng chỉ đưa đến những thất bại không kém trầm trọng. Lạm phát cũng như thất nghiệp leo lên đến những mức kỷ lục chưa từng thấy từ thời TT Roosevelt.
TT Clinton cũng theo đúng sách vở Dân Chủ: tránh né Sudan và Rwanda đưa đến những cuộc tàn sát kinh hoàng tại hai xứ này, để rồi sau đó phải xin lỗi vì đã không làm gì; tham chiến kiểu vừa đánh vừa run tại Liên Bang Nam Tư cũ (chỉ cho phản lực bay thật cao để thả bom); hay tháo chạy khi chiếc trực thăng đầu tiên bị bắn rớt tại Somalia. Sách lược đối ngoại của TT Clinton khiến Osama Bin Laden công khai gọi là cọp giấy và quyết định khơi mào cuộc chiến chống Mỹ bằng ba vụ tấn công trực diện tại Nữu Ước (đánh hai cao ốc World Trade Center lần đầu vào năm 1993), Yemen (đặt bom chiến hạm Mỹ), Kenya và Tanzania (đặt bom hai tòa đại sứ Mỹ tại thủ đô hai xứ này). Phản ứng èo uột của TT Clinton (bắn hỏa tiễn trị giá bạc triệu vào các lều trại bỏ hoang của Bin Laden tại Afghanistan) rõ ràng đã khuyến khích Bin Laden mạnh tay hơn, đưa đến thảm họa 9/11.
Nói chung, các tổng thống Dân Chủ đã chứng minh họ đều là những người đặt ưu tiên cho các cải cách xã hội trong khi lơ là, nếu không muốn nói là hoàn toàn yếu đuối, trong chính sạch đối ngoại. Tất cả đều đã đưa đến những nhận định, lượng giá sai lầm từ phía các kẻ thù của Mỹ, để rồi họ ra tay, bắt buộc Mỹ phải lựa chọn: đối phó để các cuộc tranh chấp trở nên trầm trọng hơn (Đệ Nhị Thế Chiến, Chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam), hay phủi tay chịu thua (Iran, Afghanistan, Nicaragua, Phi, Panama).
Ngày nay, TT Obama mới chấp chánh chưa đầy một năm nên có thể còn quá sớm để có nhận định dựa trên bằng chứng cụ thể. Tuy nhiên, những quyết định và tuyên cáo của ông, cho đến nay, đã cho thấy một sách lược đối ngoại tiêu biểu của các tổng thống Dân Chủ tiền nhiệm: chỉ là ưu tiên thứ, sau ưu tiên đối nội. Do đó, sẵn sàng nhân nhượng với ngoại thù cũng như những “đối tác” mạnh tiếng khác như Nga và Tầu để rảnh tay lo chuyện nội bộ.
Gần cả năm sau khi ông Obama nhậm chức và sau khi đã đi công du tám lần, thăm viếng hơn hai chục nước, vẫn chưa ai thấy được một thành quả ngoại giao nào đáng nói, ngoại trừ cái giải Nobel của mấy ông bà dân biểu thiên tả Na Uy thân tặng, và những bài diễn văn bóng bẩy chưa đọc đã được khen hay.
Cái giải Nobel đó có giá trị như thế nào" Một ký giả cấp tiến biện minh mặc dù TT Obama chưa làm nên chuyện gì để xứng đáng được thưởng, nhưng nội cái chuyện TT Obama có ý muốn thực hiện hòa bình cũng đủ xứng đáng rồi. Lý luận này khiến một ký giả bảo thủ đáp ứng ngay: ông ta cho rằng thằng con trai của ông học tiểu học, tuy chưa thi tú tài, nhưng có lẽ xứng đáng lãnh bằng tú tài vì thằng con… có ý muốn được đậu tú tài. Ý muốn mới quan trọng chứ thành quả thực sự chẳng cần thiết!
Vũ Linh
Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.