Hôm nay,  

Ngô Đình Diệm - Nhận Xét Riêng

30/04/201000:00:00(Xem: 8339)

Ngô Đình Diệm - Nhận Xét Riêng

Sol Sanders
(Lời Việt Báo. Cuộc Hội Luận Kỷ Niệm 35 Năm Lưu Vong đã thực hiện hôm Thứ Tư 28-4-2010 tại Westminster, Calif. Sau đây là bài thuyết trình của Sol Sanders đã được dịch ar việt ngữ. Sanders là chuyên gia về Châu Á với hơn 25 năm làm việc ở vùng này, và là cựu phóng viên của Business Week, US News & World Report và UPI. Ông là giám đốc Trung Tâm Truyền Thông Đaị Chúng ở đaị học University of Hong Kong và là Phó Đoàn của Ngânhàngthế Giới tại Tokyo. Ông là tac1 giả nhiều sách nghiên cứu về Châu Á, hiện là Chủ Bút Kinh Doanh Quốc Tế của tờ Washington Times.)
Mùa Thu năm 1950, nỗ lực của người Pháp nhằm chiếm lại Đông Dương bị lâm vào khủng hoảng. Chế độ Cộng sản Trung Quốc đã củng cố được các vị trí dọc biên giới miền Nam của họ với vùng thuộc địa và bảo hộ cũ của Pháp. Nhờ vậy mà Bắc Kinh mới giúp quân du kích Việt Minh có vùng trú ẩn tại Trung Quốc và cho họ lách qua ba đèo núi rừng từ Bắc Việt chạy qua Tầu. Bộ chỉ huy Pháp khi ấy đang rút khỏi các vị trí trống trải vì căng mỏng trên vùng biên giới để kui về châu thổ sông Hồng.
Một tay kỳ cựu của Tây về Trung Quốc hỏi tôi: "Ông có là dân ở trong "dinh" không" Đấy là lối chơi chữ "parti" của Pháp, vừa hàm ý là ở trong một đảng [parti] vừa chuẩn bị dinh tê, rút chạy [partir]. Tâm lý của họ khi ấy thật u ám, chủ bại.
Là một ký giả độc lập tại Nam Dương, nơi tôi đang cố lập ra một tờ báo Anh ngữ, tôi được quăng vào Hà Nội. Khi đó , tôi không chỉ là một người còn trẻ, tương đối thiếu kinh nghiệm, nhưng còn dốt nát và khờ khạo tới bất ngờ về toàn bộ tình hình quân sự và chính trị. Và sự am hiểu của tôi về lịch sử Việt Nam chỉ thu gọn trong một hai cuốn sách viết bằng Anh ngữ vào thời ấy.
Nhưng tôi ở lại Hà Nội khoảng một năm - một năm mà tôi học được rất nhiều về Việt Nam - và nói cho thật thì về cả cuộc đời, khi thấy cuộc chiến đẫm máu xảy ra chung quanh mình.
Vào thời ấy ở Hà Nội, tôi là một trong khoảng nửa tá người Mỹ ở tại chỗ, đa số là viên chức gì đó của chính quyền. Khả năng Pháp ngữ của tôi, học được trong một năm ở viện Sorbonne hồi hai ba năm về trước, và thiện chí hướng dẫn của những người Việt thuộc mọi xu hướng chính trị, đã vén ra nhiều khía cạnh mới về cuộc chiến Đông Dương, về lịch sử chế độ thuộc địa, về sự thích ứng của Cộng sản Âu châu vào hoàn cảnh địa phương, và những thành tích đằng đẵng của tinh thần quốc gia của người Việt. Tôi đã có những buổi nói chuyện riêng tư với từng người trong ban tham mưu của Tướng Jean de Lattre de Tassigny vừa mới qua. Ông ta đến nơi và ban đầu có đảo ngược được một tình trạng phải nói là gần như tháo chạy khi đó. Tôi cũng có thời gian gặp người con trai của ông, một sĩ quan thiết giáp trẻ tại vùng hỏa tuyến, và sau này chết trận.
Đôi khi tôi ăn tối ở Hà Nội với một tay trí thức nơi đó là Hoàng Xuân Hãn, một chính khách từng làm bộ trưởng giáo dục của chính phủ Trần Trọng Kim thời còn người Nhật. Sau này, tôi biết thêm như mình đã nghi ngờ khi ấy, rằng ông ta không chỉ là cộng sản, mà còn là anh của một bà trong số các cô nhân tình của ông Hồ Chí Minh. Và, giữa các bài tường thuật chính thức hơn về tình hình chiến sự, tôi cũng quen nhiều người trong đoàn Lê dương Pháp, nhiều chuyên gia Pháp về Trung Quốc và Việt Nam, nhiều thường dân và cả chính khách Việt Nam Quốc dân đàng mà về sau tôi gặp lại ở Sàigon sau năm 1954 khi Việt Nam bị chia đôi và họ phải chạy vào Nam.
Trong những tháng ấy, tôi có để ý tới hai người khi đó còn trẻ là Trần Trung Dung và Nguyễn Đình Thuần. Họ cùng làm biên tập cho một tờ báo tiếng Việt, tờ Thời Báo, do bà góa phụ của Tướng Nguyễn Văn Xuân làm chủ. Có một giai đoạn ngắn mà Tướng Xuân làm Thủ tướng của Quốc gia Việt Nam. Sau này, tội quá, ông Dung bị tù gần hai chục năm trong trại tập trung ở Việt Nam. Nhưng cứng đầu tới cùng, ông đưa ra những thông điệp chống cộng gay gắt và dữ dội nhất trước khi mất tại California.
Hai người này đều là những nhà báo trẻ và am hiểu nhất - ông Thuần về sau làm Bộ trưởng Quốc phòng tại Sàigon - và thời ấy họ thường nói với tôi rằng có một nhân vật duy nhất đủ tầm vóc và khả năng thách đố lập luận của Hồ Chí Minh là người đại diện cho Việt Nam. Họ bảo tôi rằng đó là Ngô Đình Diệm. Ông xuất thân từ một gia đình thế giá và liên hệ đến triều đình Huế, và trong một giai đoạn ngắn từng là Thượng thư bộ Lại của Chính quyền An Nam dưới chế độ Bảo hộ trước khi từ chức vì bất đồng với Pháp. Người anh của ông ta là một trong những người tuẫn nạn trong 16 tháng chiến đấu, từ cuối Thế chiến II tới khi giao tranh bùng nổ giữa Pháp và Việt Minh khi Cộng sản hết nắm được Hà Nội. Trong những ngày tôi ở Hà Nội, có nhiều tấm bảng dựng trên các công thự trong thành phố để ghi rõ nơi chốn mà những người quốc gia chống lại bọn Cộng sản đã bị giết - cũng giống như các tấm bảng ghi dấu tại Paris sau ngày Giải phóng khỏi quân Đức quốc xã - và có một tấm bảng ghi lại việc bào huynh của Tổng thống Diệm bị giết.
Vào đầu Xuân năm 1951, ông Võ Nguyên Giáp đầy tham vọng đã vươn quá xa và đẩy các lực lượng dù sao mới chỉ là du kích của ông ta vào một hình thái chiến tranh cổ điển và cao độ với quân Pháp tại Nam Định, phía Nam châu thổ sông Hồng. Đấy là một vụ tàn sát mà các đơn vị Pháp - dù đã từng bị Đức quạt cho tơi tả - cũng thừa sức ra tay nhờ sức mạnh không yểm. Từ đó quân Cộng sản hết dám thử lại trò này cho đến những năm cuối của cuộc chiến tại miền Nam. Và, dù nổi danh tại Tây phương, Giáp hết giành lại được vị thế trong đảng Cộng sản vì thất bại ấy và việc ông ta kiểm soát được quân đội trong thượng tầng Cộng sản chỉ là chuyện hư cấu từ truyền thông Tây phương, hơn là một thực tế của những đấu đá thường xuyên trong nội bộ đảng.


Vào đầu mùa Hè năm 1951, tôi tin chắc rằng Pháp đang thua dần tại Đông Dương, nhưng cú dứt điểm chỉ xảy ra với việc Trung Quốc trực tiếp can thiệp - như họ sắp làm tại Cao Ly. Tôi quyết định là mình đã quá chán cảnh u buồn tại Hà Nội - ngược với đa số giới truyền thông đang sống với nhiều tiện nghi hơn ở Sàigòn. Tôi quay về Mỹ để tìm một vị trí hải ngoại có uy tín và khá giả hơn tại Á châu.
Khi tôi về đến New York thì tôi để ý tìm ông Diệm đang sống với dòng truyền giáo "Maryknoll Fathers" ngoài ngoại ô. Cuối cùng chúng tôi gặp nhau khi ông đến thăm căn phòng nhỏ của tôi ở khu Greenwich Village. Một cuộc gặp gỡ kỳ lạ. Khi ấy, tôi vừa được biết rằng các bài viết của tôi về Việt Nam không được đài Tiếng nói Hoa Kỳ Voice of America thâu nhận nữa vì trước đó tôi có tiếp xúc với Việt Minh. Còn dĩ nhiên thì ông Diệm đang là người tỵ nạn nghèo túng sống nhờ các cha Maryknoll khi họ vừa bị trục xuất khỏi Trung Quốc là nơi họ tới truyền giáo từ xưa rồi.
Chúng tôi ngồi nói chuyện nguyên ngày. Một buổi nói chuyện u ám.
Ông Diệm giảng giải cho tôi về các vấn đề của Việt Nam được ông đặt trong khung cảnh lịch sử. Nỗi bi quan của ông ta vào lúc ấy xuất phát từ cách ông suy diễn về lịch sử Việt Nam. Ông nói ách thống trị Trung Quốc là mối nguy trường cửu và hiện đang trở thành thực tế nếu không có một quốc gia thứ ba ở trong vùng. Và ông lo rằng Cộng sản Trung Quốc đang có vẻ củng cố được chế độ của họ. Ông Diệm quan ngại về mối tổn thất nhân sự quá lớn của chiến tranh [tại Đông Dương] và bực bội vì người Mỹ vẫn chưa hiểu gì về bản chất của cuộc đấu tranh. Ông Diệm tỷ mỉ phân tách những cố gắng bất thành của mình khi muốn can gián Bảo Đại, lúc đó đang ở Hong Kong, là đừng chấp nhận đề nghị của Pháp mà trở về làm Hoàng đế của một xứ nằm trong thực thể họ gọi là "Liên hiệp Pháp", và vì sao ông (Diệm) lại chọn cuộc sống lưu vong thay vì trở về trong những điều kiện ông gọi là không vẹn toàn của nên độc lập của Việt Nam.
Chúng tôi chia tay, tôi nhớ là với rất ít hy vọng cho một sự cải thiện của tình hình.
Cuộc gặp gỡ thứ hai - và cuối cùng tại Mỹ - của chúng tôi là trong một tiệm cơm Tầu gần cao ốc Chrysler. Một ngẫu nhiên thôi và chúng tôi cũng chẳng nói chuyện gì nhiều.
Thế rồi xảy ra vụ Điện Biên Phủ - mà phần nào bây giờ chúng ta đều biết là xác nhận sự suy đoán của tôi về số phận của Pháp do sự can thiệp của Trung Cộng. Sau khi bại trận, Pháp tung ra dự báo chung rằng miền Nam của xứ Việt Nam bị chia đôi sẽ rơi vào tay cộng sản trong vòng sáu tháng. Bộ Ngoại giao Pháp tại Quai d'Orsay ra vẻ nhượng bộ Foster Dulles, viên Ngoại trưởng của Tổng thống Eisenhower và là người đề xướng việc hăm dọa sẽ dùng võ khí nguyên tử tại Điện Biên Phủ: Paris đồng ý cho Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ông Ngô Đình Diện làm Thủ tướng tại Sàigòn. Người bạn cũ của tôi là Đỗ Vạng Lý quay về Sàigòn làm Đổng lý Văn phòng cho ông Diệm.
Ngược với quan điểm phổ biến mà người ta tưởng là sáng suốt - của cả Pháp lẫn bộ Ngoại giao Hoa Kỳ - ông Diệm đã làm một số điều gần như phép lạ. Đó là củng cố lại chế độ với việc truất phế Bảo Đại, đạt một loạt thắng lợi quân sự chống các "giáo phái" và mấy cuộc đảo chánh do Pháp xúi giục, rồi lập ra một chính phủ ổn định tại Sàigòn. Quả là một chuỗi biến cố mà tôi đã có dịp trình bày ở nhiều nơi khác, khiến chánh sách Hoa Kỳ đảo ngược được cục diện, như nhờ sự can thiệp của Nghị sĩ Mike Mansfield, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Thượng viện, qua trung gian ông Joseph Buttinger của Tổ chức Cứu trợ Quốc tế International Rescue Committee, và trưởng trạm CIA là Ed Lansdale.
Cuối năm 1958, từ vai trò phó biên tập về ngoại giao tại New York cho tạp chí Business Week tôi nhận  nhiệm vụ mới là phái viên Á châu tại Tokyo. Tôi ghé ngang Sàigòn và có gần một ngày hàn huyên với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Vâng, chúng tôi ngồi ngoài hiên của dinh Thống sứ cũ của Pháp, ăn phó mát Tây và uống trà - là điều mà ông bị giới "chờ thời" tại Sàigòn đả kích. Họ là thành phần trí thức đã từ chối cộng tác với chế độ mới. Ông Diệm nói đùa về hoàn cảnh mới của hai chúng tôi khi so sánh với lần gặp gỡ trước tại New York là lúc, như ông nói, chúng tôi đều không có việc làm.
Tổng thống Diệm trình bày tường tận cho tôi nghe những khó khăn của ông và của chế độ.
Như mọi khi, tôi ngạc nhiên về sự am hiểu uyên bác mà tỷ mỉ của ông. Một mỉa mai trong một chuỗi dài những lời đả kích ông Diệm của suốt giai đoạn ấy là ông bị chê là tách rời khỏi thực tế, rằng ông không biết gì về những chuyện xảy ra trong nước. Thật ra, tôi lại có thể nhận xét trái ngược qua lần tiếp xúc này và nhiều lần khác sau đó khi ông còn lãnh đạo, rằng ông Diệm quá chú ý đến tiểu tiết và muốn can dự vào những chuyện nhỏ ở dưới. Một lần, sau khi thăm viếng một vùng nhiễu loạn của châu thổ Cửu Long, tôi giật mình nghe ông mô tả một cây cầu đặc biệt cho một đường chuyển vận đặc biệt mà tôi đã thấy tại chỗ là rất quan trọng cho sinh hoạt của dân chúng địa phương.
Từ cuối năm 1961 đến 1970, hầu hết thời gian của tôi là làm thông tín viên tại Việt Nam cho tờ U.S. News and World Report. Tôi được rất nhiều cơ hội nói chuyện với Tổng thống, bào đệ của ông và bà Nhu. Nhận xét của tôi, như được tôi viết trong các bài tường thuật, lại không giống với quan điểm phổ biến của giới truyền thông mà tôi đánh giá là không am hiểu về bản chất và những phức tạp của cuộc đấu tranh.
Tháng 11 năm 1963, tôi đang nghỉ hè với bà mẹ gìa của mình từ New Dehli qua. Chúng tôi tham dự một chuyến du lịch bình thường tại Nam Á và Đông Á. Trong phòng khách của khách sạn Trocadéro ở Bangkok vào buổi sáng oan nghiệp đó, một nhà báo trẻ người Anh mà tôi quen từ Sàigòn đã nói hắt cho tôi: "Cuối cùng cuộc đảo chánh đã xảy ra. Ông Diệm bị bắt rồi".
Tôi nói với bà mẹ, giọng bình thản: "Họ sẽ giết ông cụ". Bà mẹ tôi hỏi: "Sao con nói vậy" Có khi ông ta được lưu vong chăng". "Họ không có can đảm nhìn ông cụ tận mặt."
Thật đáng tiếc là trong rất nhiều dự đoán sai lầm của tôi, lần đó lại đúng.
Còn lại, như người ta hay nói, chỉ là lịch sử.
Sol W. Sanders - 2010-04-06

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.