Pháp luật phổ thông – LS Lê Đình Hồ
[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang được xuất bản năm 2004. Qúy độc giả muốn mua sách, xin vui lòng liên lạc [email protected]]
Hỏi (Ông Trần T.H): Tôi cùng một người mướn chung căn unit. Cách đây 3 tuần tôi có mời bạn bè về nhà uống rượu. Anh ta không đồng ý và có lời lẽ thiếu lịch sự với bạn bè của tôi. Sau khi lời qua tiếng lại anh ta đã hất tung chai rượu xuống nền nhà. Thế là sự ẩu đả đã xẩy ra. Vì anh ta lớn xác hơn nên tôi buộc lòng phải tự vệ. Tôi đã dùng dao cắt bánh mì đâm vào người anh ta gây nhiều vết chầy.
Hàng xóm đã gọi cảnh sát đến. Tôi cùng anh ta bị mời về đồn. Sau khi hỏi cung tôi bị cáo buộc về tội ở điều 35(2).
Sáng hôm sau tôi bị đưa ra tòa. Tôi không chịu nhận tội. Tòa cho tôi tại ngọai chờ ngày xét xử.
Xin LS cho biết nếu bị kết tội tôi có bị ở tù không"
*
Trả lời: Điều 35(2) của Đạo Luật Hình Sự 1900 (Crimes Act 1900) quy định rằng “Bất cứ ai bằng bất cứ phương cách nào một cách có ác ý: (a) gây thương tích cho bất cứ người nào, hoặc (b) gây ra sự đau đớn trầm trọng về thể xác cho bất cứ cá nhân nào sẽ bị tù 10 năm” [Whosoever maliciously by any means: (a) wounds any person, or (b) inflicts grievous bodily harm upon any person, shall be liable to imprisonment for 10 years].
[Ghi Chú: grievous bodily harm (GBH) “Tội gây sự đau đớn trầm trọng về thể xác): Thuật từ được dùng để chỉ sự thương tật nghiêm trọng về thể chất, thường bao gồm sự thương tật gây nguy hiểm đến tính mạng [tính mệnh] hoặc gây nên thương tật vĩnh viễn. Theo án lệ, thuật từ không có nghĩa cố định về phương diện pháp lý và phải để cho bồi thẩm đoàn quyết định theo ý nghĩa của thuật từ vào thời điểm đó.” (The term used to denote a serious bodily injury, usually including injury endangering life or causing permanent injury. At common law, the term has no fixed legal meaning and should be left to the jury to decide in accordance with the meaning of the words at the time).
Điều 33 “Đạo Luật Hình Sự” (the Crimes Act 1900) quy định rằng: “Bất cứ ai bằng bất cứ phương tiện nào có ác ý gây thương tích hoặc gây sự đau đớn trầm trọng về thể xác đối với bất cứ người nào. . . với ý định trong tình huống đó gây sự đau đớn trầm trọng về thể xác đối với bất cứ người nào . . . sẽ bị tù 25 năm” (Whosoever maliciously by any means wounds or inflicts grievous bodily harm upon any person. . . with intent in any such case to do grievous bodily harm to any person . . . shall be liable to imprisonment for 25 years).
Trong vụ R v Ferrer [2008] NSWCCA 104, “Bị cáo và nạn nhân là bạn cho đến lúc bị cáo hành hung nạn nhân. Họ thường gặp nhau hàng ngày. Họ cùng tham dự cai nghiện ma túy và nạn nhân là người khách thường xuyên đến thăm nhà bị cáo để xem phim và cùng nhau ăn uống. Ngày trước khi xảy ra vụ tấn công, bị cáo thấy máy chơi Gameboy và game ở nhà bị mất và nghĩ rằng nạn nhân đã ăn cắp chúng” (The accused and the victim were friends until his assault on the victim. They used to see each other every day. They attended the same methadone clinic and the victim was a regular visitor to the accused’s house, where they would watch movies and share meals together. The day before the attack, the accused found that his Gameboy and a game were missing from his home and formed the view that the victim had stolen them).
“Vào ngày phạm tội, nạn nhân và bị cáo gặp nhau tại phòng cai ma túy. Bị cáo được người bạn lái xe đưa lại đó. Nạn nhân, bị mất bằng, nên đã đến đó bằng xe lữa và xe đạp” (On the day of the offence, the victim and the accused met at the methadone clinic. The accused had been driven there by a friend. The victim, who had lost his licence, had travelled there by train and bicycle).
“Sau khi họ nhận xong liều lượng để cai nghiện, bị cáo đã mời nạn nhân vào xe và, khi họ lái xe khỏi phòng chữa trị, giáp mặt nạn nhân với sự nghi ngờ về vụ lấy trộm Gameboy” (After they had received their doses of methadone, the accused invited the victim into the car and, as they drove away from the clinic, confronted him with his suspicions as to the theft of the Gameboy).
“Khi bị cảnh sát chất vấn, bị cáo khai rằng lời qua tiếng lại làm bị cáo nổi cáu vì nạn nhân cứ thay đổi mẫu chuyện của hắn, lúc thì chối là không ăn cắp rồi ngay sau đó thì đồng ý trả lại các món đồ ăn cắp. Bị cáo bảo tài xế đậu xe vào trong một tòa chung cư nơi mà bị cáo yêu cầu nạn nhân bước ra khỏi xe để đánh lộn. Nạn nhân không chịu và cứ ngồi trong xe. Bị cáo bèn trở vào xe để đối đầu với nạn nhân ở băng sau” (When interviewed by police, the accused said that the exchange made him angry because the victim kept changing his story, one moment denying the theft and the next moment agreeing to return the stolen items. The accused directed the driver to pull over into a block of units where he invited the victim to step out of the car to have a fight. The victim refused and stayed in the car. The accused then returned to the car to confront the victim in the back seat).
“Không có sự tranh cãi giữa công tố viện và bị cáo về việc bị cáo đã đâm nạn nhân bằng cây kéo một lần ở bụng, 4 lần ở lưng và một lần sau tai trái. Tuy nhiên, nạn nhân khai rằng bị cáo rút cây kéo ra, trong lúc đó bị cáo khai rằng nạn nhân là người rút kéo ra và đánh vào tay của bị cáo, làm sứt đi một miếng thịt ở ngón trỏ của bị cáo. Bị cáo bèn giật cái kéo từ tay của nạn nhân. Theo lời khai của bị cáo, sự tấn công bị cáo bằng kéo của nạn nhân làm bị cáo nổi giận và rồi sau đó bị cáo đã dùng kéo để đâm nạn nhân” (There was no dispute between the Crown and the accused as to the accused stabbed the victim with a pair of scissors once in the abdomen, four times in the back and once behind the left ear. However, the victim said that the scissors were produced by the accused, whereas the accused said that it was the victim who produced the scissors and stuck the accused’s hand with them, taking a chunk of flesh out of his index finger. The accused then wrested the scissors from the victim. According to the accused’s version, the victim’s attack on him with the scissors made him angry and it was then that he struck the victim with the scissors).
“Ba ngày sau sự cố bị cáo đã bị bắt. Bị cáo đưa ra một vài lời thú nhận về sự tham gia của bị cáo trong vụ tấn công. Tuy nhiên, Bị cáo từ chối việc đâm nạn nhân vào bụng và khai rằng bị cáo không nghĩ là bị cáo đã đâm nạn nhân vào lưng 4 lần” (The accused was arrested three days after the incident. He made a number of admissions as to his participation in the attack. However, he denied stabbing the victim in the abdomen and said that he did not think that he had stabbed the victim four times in the back).
Bị cáo bị cáo buộc tội quy định trong điều 33, và điều 35(2) nêu trên. Bị cáo không chịu nhận tội. Nhưng vào lúc xét xử bị cáo đã nhận tội. Tòa đã tuyên án bị cáo 4 năm tù ở, và buộc bị cáo phải thụ hình tối thiểu là 2 năm. Công tố viện bèn kháng án vì cho rằng bản án quá nhẹ và không thích đáng. Tuy nhiên, Tòa Kháng An Hình Sự đã giữ y án của tòa án vùng.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể biết được rằng tội phạm mà ông bị cáo buộc là một tội phạm hình sự với hình phạt tối đa là 10 năm tù ở. Tuy nhiên, ông có bị phạt nặng hay nhẹ, ở tù hay không điều đó còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác, chẳng hạn như thương tích mà ông đã gây ra cho nạn nhân, tiền án, tuổi tác, tình trạng gia đình và tình huống mà trong đó sự vi phạm đã xảy ra. Tất cả các yếu tố này sẽ được tòa lưu tâm đến trước khi tuyên án.
Có rất nhiều người bị cáo buộc về tội trạng này, và trong số này cũng có rất nhiều trường hợp được tòa phạt án treo, phạt tiền hoặc buộc phải giữ gìn tánh hạnh trong một thời gian nào đó.
Nếu ông còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.