Hôm nay,  

Những Ngày Cuối Của VNCH (Nguyên Tác: The Final Collapse Của Đại Tướng Cao Văn Viên) (Tiếp Theo Chương 10...)

24/06/200800:00:00(Xem: 3986)
(Tiếp theo Chương 10...)

Trong khi đó phía quân đội VNCH cần phải có lính để canh giữ đồn bót, cơ quan hành chánh; phải bảo vệ an ninh cho dân ở điạ phương, dù điạ phương đó ở gần hay xa thị tứ. Dĩ nhiên, lính lại cần nhiều hơn nữa cho các cuộc hành quân truy lùng và triệt tiêu. Theo những nghiên cứu của các chuyên gia về du kích chiến. Muốn thắng du kích quân, chúng ta cần có một lực lượng 10 trên 1; với lực lượng 5 trên 1, cuộc chiến sẽ bất phân thắng bại và kéo dài trong một thời gian vô định. Ngược lại, nếu lực lượng của chính phủ chỉ hơn du kích quân 2 đến 3 lần, thì du kích quân sẽ có cơ hội thắng. Tỉ lệ giữa lực lượng Đồng Minh và cộng sản trong cuộc chiến Việt Nam là 4.7 trên 1 khi Đồng Minh có 1 triệu 500 ngàn quân và cộng sản có 320 ngàn quân. Với tỉ lệ quân số này, chúng ta có khả năng đánh bật cộng sản ra ngoài lãnh thổ VNCH. Nhưng phải hiểu, ngoài những hỏa lực cơ hữu của các sư đoàn bộ binh Hoa Kỳ, quân đội Hoa Kỳ và VNCH còn được không trợ của Không và Hải Quân Hoa Kỳ yểm trợ tối đa khi cần.

Với những yểm trợ từ cộng sản quốc tế, chiến tranh ở Việt Nam không còn là một cuộc "nội chiến" như nhiều người đã lầm tưởng. Trong những giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, quân đội CSBV được trang bị vũ khí tối tân nhất của khối cộng sản. Kế hoạch đánh chiếm miền Nam được CSBV soạn thảo và chỉ huy, và thể hiện qua con bài của họ là Mặt Trận Giải Phóng và Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Nam Việt Nam.

Có nhiều đề nghị tại sao VNCH không dùng chiến thuật du kích để đánh lại cộng sản ngay trong vùng kiểm soát của họ, hay ngay ở miền Bắc" Những chiến thuật của du kích chiến chỉ có thể thực hiện được trên một tầm vóc nhỏ, giới hạn. Quân chúng ta không thể nào sống trong lòng địch và có được sự yểm trợ của dân địa phương. Khi chúng ta áp dụng chiến thuật du kích để đánh du kích, chúng ta có nhiều thất bại hơn thành công. Có một định lý về chế độ kiểm soát của cộng sản: khi một nhóm dân bị cộng sản ở địa phương đó kiểm soát trong một thời gian vài năm, nhóm dân ở đó sẽ bị kiểm soát chặt không thoát được những người chống đối sẽ bị cô lập; các lãnh tụ đối lập bị triệt tiêu hay vô hiệu hóa.

Việt Nam có được độc lập từ cuối năm 1954. Nhưng như một quốc gia, toàn dân Việt Nam chưa tiến đến một trình độ dân trí được coi như là khả quan. Nhiều người dân sống trong hoàn cảnh chiến tranh lâu đến độ họ không quan tâm đến chiến tranh nữa. Vì thế người dân cần được thúc đẩy, giáo dục và hướng dẫn. Nhưng dân chủ, một hình thức chánh phủ mới lạ với họ chưa chắc là một giải pháp tốt nhất.

Khi một quốc gia đang chiến đấu để sinh tồn và cùng lúc muốn bảo vệ những nguyên tắc dân chủ là một chuyện khó khăn. Có lúc, chính quyền VNCH không thể nào áp dụng những phương thức "trái dân chủ" để giải quyết những tệ trạng như đào ngũ, trốn lính, biểu tình, hay những phong trào phản động có khuynh hướng làm lợi cho địch. Chính phủ VNCH có nhiều khiếm khuyết trong việc ngăn chận những thành phần thân cộng đang sống một cách tự do để hoạt động cho phía họ. Nhiều thân nhân của các cán bộ cao cấp cộng sản vẫn được chính phủ VNCH cho phép sống một cách yên lành ở ngay trong vùng kiểm soát của quốc gia. Sau khi Saigon thất thủ, nhiều văn nghệ sĩ, quân nhân công chức ở lại đã được chánh quyền cộng sản thưởng cho nhiều vai trò trong cơ sở hành chánh của họ. Đối với tác giả, trong một hoàn cảnh chiến tranh, tất cả quyết định và kế hoạch đều phải hướng về chủ đích chiến đấu để chiến thắng. Mọi ưu tiên đều phải dành cho chiến tranh; tất cả các kế hoạch khác chỉ là phụ thuộc.

Nói một cách tổng quát, kế hoạch tổng động viên của VNCH chỉ đem lại được phân nửa số nhân lực quân đội cần thiết. Chính phủ đạt được những kết quả khiêm nhường trong kế hoạch ngăn ngừa nạn trốn lính, đào ngũ, để kiểm soát được nhân lực của quốc gia. Vì thiếu quân số thường xuyên, các đơn vị ít được cơ hội nghỉ dưỡng sức dài hạn và bồi dưởng. Trong khi đó điều kiện vật chất và đời sống của gia đình binh sĩ thường dưới mức trung bình. Chính phủ VNCH có nhiều khuyết điểm trong việc tuyển chọn, xử dụng nhân sự trong quân đội và hành chánh: sự bổ nhiệm và thăng thưởng không tùy thuộc vào đức hạnh, khả năng hay tài sức, mà tùy thuộc vào sự quen biết cá nhân, liên hệ gia đình hay giòng họ. Sự trừng phạt cũng chỉ lấy lệ, đôi khi không có, đối với những quân nhân công chức phạm pháp. Điều này thúc đẩy thêm nhiều sự phạm pháp trong nền hành chánh và trong quân đội.

Dù dân số Bắc Việt chỉ hơn miền Nam hai triệu người, chế độ quân dịch và hệ thống đôn quân của họ đưọc kiểm soát chặt chẽ và sâu rộng. Ngay cả các tù binh chiến tranh sau khi được phóng thích hay trao trả, CSBV tái huấn luyện và bổ sung trở lại đơn vị. Miền Bắc cũng có chương trình tổng động viên, nhưng hệ thống quân dịch của CSBV được kiểm soát rất nghiêm ngặt; nạn trốn lính được giảm thiểu tối đa. Cùng lúc, ở những vùng hẻo lánh ở miền Nam, cộng sản ép buộc, dụ dổ những vị thành niên ở lứa tuổi 15-17 gia nhập quân đội họ. Nói một cách tổng quát, Bắc Việt có ưu thế nhiều hơn VNCH với một hậu phương được kiểm soát kỹ dưới hệ thống độc đảng của một xã hội cộng sản.

Trong chiến tranh Đại Hàn, quân đội đồng minh của Liên Hiệp Quốc nằm dưới một bộ tư lệnh duy nhất do Hoa Kỳ chỉ huy. Ngay trong giai đoạn hiểm nghèo nhất của cuộc chiến, tổng thống Nam Hàn đã cho phép công dân Nam Hàn chiến đấu trong các đơn vị Hoa Kỳ. Ở Việt Nam, trong giai đoạn cao nhất của cuộc chiến, quân đội VNCH và Hoa Kỳ không bao giờ có một bộ chỉ huy chung. Đó là một lỗi lầm lớn nhất trong nguyên tắc chiến tranh: hai quân đội không có được một bộ tư lệnh chung để điều khiển tất cả các lực lượng đang có mặt ở chiến trường. Khi thay vào một bộ tư lệnh duy nhất bằng những kế hoạch như hợp tác và điều hành hỗn hợp, sự thành công ở chiến trường, nếu có, chỉ phụ thuộc vào các vị tư lệnh chiến trường cố gắng tránh đụng chạm nhau. Có nhiều sự đụng chạm giữa hai phía Việt Mỹ đã xảy ra trong chiến trường Việt Nam, tuy nhiên những xung đột này không quan trọng hay đưa đến một đổ vỡ nào. Nhưng khi không có một bộ tư lệnh chung, những quyết định quân sự không được thực hiện nhanh chóng, những tiềm năng quân sự, nhân lực, không được áp dụng đúng chổ.

Về chiến thuật, với phương tiện cơ hữu như thiết vận xa M-113 và trực thăng, quân đội có thể mở những cuộc hành quân lớn một cách chớp nhoáng, thay vì phải bỏ ra nhiều ngày di chuyển đến mục tiêu. Nếu cần phải đóng quân lại tại một mặt trận lâu ngày, các căn cứ hoả lực có thể được thiết lập ngay để có thể cung cấp hoả lực cho mặt trận nếu cần. Nhưng phải nhấn mạnh, trong cuộc chiến Việt Nam, các tư lệnh chiến trường phải thường trực thay đổi chiến thuật, vì địch rất nhạy bén trong vấn đề thích ứng với chiến thuật mới của đối phương ở chiến trường để tránh thiệt hại.

Về quân báo: quân đội VNCH đạt được nhiều thành công khả quan về cơ cấu tổ chức cũng như về kỹ thuật thu thập tin tức. Từ năm 1968 trở đi, tin tức tình báo chúng ta thâu thập được chính xác và cập nhật hoá hơn. Tương tự, ở ngành Tiếp Liệu, hệ thống phân phối quân dụng, vũ khí cho quân đội được tối tân hóa, để các đơn vị có thể nhận được nhu dụng cần thiết nhanh chóng theo sự đòi hỏi của họ.

Nhiệm vụ căn bản của Không Quân Việt Nam là yểm trợ không lực chiến thuật ngoài mặt trận và chuyên chở không vận. Không Quân có khả năng rất giới hạn trong nhiệm vụ phòng thủ không phận. Vào cuối nâm 1974 khi CSBV trang bị thêm nhiều hoả tiễn và phòng không tối tân, khả năng yểm trợ của không quân ở chiến trường giới hạn và kém hữu hiệu. Hải Quân Việt Nam, với nhiệm vụ chính là ngăn chận sự xâm nhập của CSBV ở sông và miền duyên hải. Hải Quân Việt Nam không phải là một lực lượng đáng ngại so với các nước tân tiến khác. Vũ khí trang bị của Hải Quân Việt Nam tỏ ra khiếm khuyết so với Hải Quân Trung Cộng khi hai nước giao chiến ở quần đảo Hoàng Sa vào đầu năm 1974.

Nói một cách tổng quát về khả năng của quân lực VNCH: trừ những khiếm khuyết về quân số và sự quản trị nhân lực, khi được trang bị đầy đủ, quân đội VNCH có thừa khả năng hoàn tất nhiệm vụ, như họ đã chứng minh vào hai cuộc tấn công ồ ạt của cộng sản vào năm 1968 và 1972.

Cuộc chiến tranh CSBV đeo đuổi liên tục qua một thời gian dài ở Việt Nam không phải là một cuộc chiến thuần túy về quân sự. Đó là một cuộc chiến toàn diện với những mặt trận về chính trị, ngoại giao và kinh tế. Về phương diện chính trị, cộng sản đã khôn khéo, không những lấy được viện trợ của các nước cộng sản, mà họ còn được sự ủng hộ của các quốc gia nằm trong khối Bất Liên Hiệp. CSVN lấy lòng được cả hai đàn anh Trung Cộng và Nga Sô dù hai quốc gia này đang gây hấn nhau để nhận quân viện từ hai bên. Theo những tin tức từ giới ngoại giao, trong năm 1974, CSBV nhận gấp ba, bốn lần, số quân viện so với các năm trước.

Cộng sản biết rõ quân đội VNCH sẽ chiến đấu nếu họ được một số quân viện tối thiểu. Biết được điều đó, CSBV tìm mọi cách để ngăn chận Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho VNCH. Đây là một đòn rất độc hiểm của cộng sản, vì quân viện là nền tảng của cuộc chiến này. CSBV dùng tất cả bộ máy truyên truyền trong và ngoài nước để làm lợi cho họ. Một mặt họ tuyên truyền cuộc xâm lăng của họ là đúng; và cuộc chiến tự vệ của VNCH là sai. Sự tuyên truyền gây một ngộ nhận cho dân chúng Hoa Kỳ nghĩ chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến vô nhân bản; chánh phủ VNCH là một chánh phủ thiếu khả năng, tham nhũng, không xứng đáng nhận viện trợ của Hoa Kỳ và thế giới tự do.(4)

Một số lớn báo chí Hoa Kỳ có khuynh hướng chống lại cuộc chiến ở Việt Nam, và họ không có thái độ nào để chống lại những tuyên truyền sai lạc của cộng sản. Thêm vào đó, với những nhóm phản chiến rầm rộ tuyên truyền tiếp tay, khiến tiếng nói trung thực của chúng ta bị chìm sâu trong những ồn ào phản chiến; lý tưởng của cuộc tranh đấu bị lãng quên hay bị bỏ rơi. Một trong những nhóm phản chiến này có tên là Trung Tâm Hoạt Kế Đông Dương. Theo lời tường trình của đại sứ Graham Martin, Trung Tâm này là nơi qui tụ nhiều thành phần như giáo sư, tu sĩ, các nhà truyền giáo... họ in và lưu hành nhiều bức thư "hoà bình," kêu gọi ngưng cuộc chiến và chấm dứt mọi quân viện cho miền Nam.

Tuyên truyền chống chiến tranh của cộng sản đã làm tâm lý quần chúng Hoa Kỳ nghĩ cuộc chiến ở Việt Nam là một cuộc phiêu lưu vô vọng; một cuộc chiến không lối thoát. Từ những thái độ đó, thanh niên, học sinh Mỹ đứng lên biểu tình chống chiến tranh. Bị những áp lực đến từ quần chúng, quốc hội Hoa Kỳ không còn cách nào khác hơn là đưa ra những quyết nghị giới hạn dần những hoạt động quân sự của chính phủ Hoa Kỳ ở Đông Dương, rồi sau đó là quyết định giảm thiểu viện trợ cho VNCH. Sau cuộc chiến tranh Việt Pháp, mọi người nói sự thất bại xảy ra ở Ba Lê. Tương tự, trong cuộc chiến này, sự thất trận bắt nguồn tự nội địa Hoa Kỳ.

Chúng ta không thể phủ nhận kẻ thù của chúng ta quyết tâm, kiên trì và nhiều kinh nghiệm trong cuộc chiến. Trong suốt cuộc chiến, CSBV có một đường lối, kế hoạch chính trị quân sự liên tục, không thay đổi. Mục tiêu cố định của họ là cưỡng chiếm miền Nam qua những giai đoạn chiến tranh nhân dân, hay chiến tranh giải phóng bằng biện pháp quân sự. CSBV có nhiều thay đổi, có nhiều quyết nghị về cuộc chiến, nhưng tựu trung thái độ và mục đích của họ vẫn là dùng biện pháp quân sự để giải quyết chiến tranh.

Chiến lược của chúng ta trong cuộc chiến không được liên tục. Sau khi Hiệp Định Ba Lê được ký, trong khi cộng sản vẫn tiếp tục chuẩn bị cho những cuộc tấn công sau cùng, VNCH quay sang lo cải tổ, sửa soạn chấn hưng nền kinh tế. Để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, chúng ta đã rút bớt 100 ngàn quân, đưa vào các kế hoạch kinh tế và sản xuất. Khi nhận ra cộng sản vẫn tiếp tục vi phạm hiệp ước đình chiến, kế hoạch trên đã phải hủy bỏ: ta đã mất đi một thời gian qúy báu.

Cộng sản không bao giờ quan tâm về những thiệt hại, dù lớn đến đâu. Mọi kế hoạch quân sự, thắng hay thua, đều có ý nghĩa như nhau miễn sao đạt được mục đích chính trị. Hai thí dụ điển hình về sự bất chấp thiệt hại nhân sự để đạt được tiếng vang chính trị, là trận tấn công năm Mậu Thân 1968 và trận "Mùa Hè Đỏ Lửa" năm 1972. Tình hình chung của VNCH vào năm 1968 rất khả quan. Mọi kế hoạch bình định tiến triển vượt bực; tình hình quân sự chung trên chiến trường cho thấy cuộc chiến sắp đến giai đoạn kết thúc. Nói theo quan điểm người Mỹ lúc đó là, chúng ta đã "nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm." Nhưng ngay giai đoạn đó cộng sản bất thần mở ba cuộc tấn công tự sát vào thị trấn, quận lỵ quan trọng ở miền Nam. Mặc dù cộng sản bị thiệt hại khủng khiếp trong các cuộc tấn công đó, nhưng họ chứng tỏ cho thế giới và Hoa Kỳ biết là họ chưa thua hẳn, và có khả năng làm những chuyện không ai ngờ được. Dư luận ở Mỹ và thế giới sửng sốt vì cuộc tấn công liều mạng của cộng sản. Cũng có lẽ cuộc tấn công đó đưa đến sự nghi ngờ của dân chúng Hoa Kỳ về cuộc chiến ở Việt Nam, và khiến tổng thống Lyndon Johnson không muốn ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa.

Năm 1972, đối diện với cuộc hội đàm nửa kín nửa hở giữa Lê Đức Thọ và Kissinger về cuộc chiến Việt Nam. Khi biết Hoa Kỳ không nhượng bộ những đòi hỏi của họ, CSBV quyết định tràn qua vĩ tuyến 17 tấn công VNCH ở nhiều nơi. Một lần nữa CSBV hoàn toàn thảm bại: khi cuộc tấn công bị bẻ gẫy vào cuối năm 1972, trung bình một tiểu đoàn CSBV chỉ còn khoảng 100 người.(6) Ngay trước thời điểm CSBV tấn công, tổng thống Nixon, đang phải đương đầu với nhiều khủng hoảng tại nội địa, nhất là khuynh hướng phản chiến ở quốc hội, đề nghị với Hà Nội là Hoa Kỳ sẽ rút hết quân khỏi miền Nam trong vòng 120 ngày sau khi hiệp định được ký kết, và sau khi Hà Nội trao trả hết tù binh Mỹ đang bị giam cầm ở miền Bắc. Tuy nhiên Hà Nội gạt bỏ đề nghị của Hoa Kỳ và tấn công như dự định.

Trong cuộc chiến Việt Nam, những yếu điểm và thất bại của cộng sản được họ che giấu rất kỹ, và đã không được chúng ta khai thác có kết quả. Quân đội của cộng sản thông thường được huấn luyện để tấn công những mục tiêu đã được tập trước. Họ rất lúng túng nếu phải đương đầu hay chiến đấu trước những tình thế, hoàn cảnh bất ngờ. Tuy nhiên sau khi thất bại, họ phải trả bằng những buổi học tập tự kiểm thảo. phải nói ý chí và sự kiên cường của họ đã được đền bù sau một trong thời gian dài.

Ngược lại, phía bên chúng ta không học kỷ bài học lịch sử. Chúng ta không biết lợi dụng những thành công và tiếp tục theo đuổi những thành công đó. Theo thiển ý của tác giả, với những thành quả quân sự quân đội VNCH có được sau năm 1968, lẽ ra chúng ta phải tiếp tục đánh tới tấp, phản công mạnh. Nếu làm như vậy, có lẽ cuộc chiến đã được giải quyết trong thời điểm đó. Mọi sự quan sát cho thấy sau cuộc tấn công tự sát vào năm Mậu Thân, tiềm năng của cộng sản đã kiệt quệ và phải cần gần bốn năm sau mới phục hồi lại khả năng chiến đấu. Theo một nguồn tin không chánh thức, Trung Ương Cục Miền Nam có lần bị trúng bom B-52, và hệ thống này bị tê liệt trong một giai đoạn. Rất tiếc chúng ta không khai thác thêm.
Ưu điểm và khuyết điểm; lợi thế và thất thế của hai bên CSBV và VNCH được tổng kết lại và kết quả là sự thất thủ của miền Nam. Chúng ta có thể học được bài học từ sự thất bại đó để có một chính sách đối ứng vối cộng sản trong tương lai. Nhưng đến một ngày nào đó thì đã qúa trễ. Thử thách của cộng sản lúc nào cũng hiện hữu trước chúng ta.

Chú thích:

4. Đối với một quốc gia đang phát triển, vấn đề đầu tư và viện trợ từ nước ngoài là một vấn đề quan trọng trong giai đoạn thành hình. Nhưng quốc gia nhận viện trợ không nhất thiết phải dùng tất cả ngân khoản vào mục đích tự lực, tự cường, trong một giai đoạn ngắn vì viện trợ lúc nào cũng đi kèm với những đòi hỏi về chính trị, dù đó là viện trợ quân sự hay kinh tế. Khi quốc gia đang nhận viện trợ bị tàn phá vì chiến tranh như trường hợp VNCH, quốc gia đó cần nhận được nhiều viện trợ trong một thời gian càng lâu càng tốt. Trong trường hợp đó, ngân khoản viện trợ phải được coi như một kế hoạch dài hạn: phải ước lượng thời gian nhận được viện trợ sẽ bao lâu, quốc gia cần những viện trợ gì và cần bao nhiêu hàng năm. Khi xếp đặt vấn đề viện trợ thành một mục tiêu dài hạng, chính phủ mới biết được kế hoạch thường niên, và sẽ phản ứng ra sao khi không còn nhận được viện trợ vì viện trợ sẽ chấm dứt một ngày nào đó. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, viện trợ không thể bị cắt ngang một cách đột ngột, vì ảnh hưởng tâm lý và vật chất rất trầm trọng cho quốc gia đang nhận viện trợ. Một kế hoạch viện trợ lý tưởng là kế hoạch làm cho nước nhận viện trợ được tự túc, tự lực trong một thời gian ngắn nhất. Lãnh tụ của các quốc gia nhận viện trợ thường bị chỉ trích là tham nhũng và thiếu khả năng lãnh đạo. Một số lãnh tụ đáng bị chỉ trích và cần được thay thế bằng một người có khả năng hơn. Và nếu một quốc gia không có được một lãnh tụ có khả năng quản trị, thì quốc gia đó không xứng đáng nhận viện trợ: vì không có viện trợ nào dù lớn đến đâu có thể cứu vãn sự suy sụp, không sớm thì muộn, của quốc gia đó. (chú thích của tác giả).

5. Về tình hình quân sự bi đát và tinh thần sa sút của quân đội CSBV sau cuộc tấn công năm 1972, đọc, thượng tướng Nguyễn Hữu An, Chiến Trường Mới (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2002), trang 164-189 (chú thích của dịch giả).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.