Hôm nay,  

Thiên Đàng Cộng Sản: Staline Ơi, Sao Mi Đã Bỏ Rơi Chúng Tao?

23/04/200900:00:00(Xem: 15785)

Thiên Đàng Cộng Sản: Staline ơi, Sao mi đã bỏ rơi chúng tao"

Xin xem chú thích ảnh cuối bài.


Phan Văn Song


Họ là người Mỹ, nhưng họ vẫn mê và tin vào giấc mơ Sô-Viết. Họ bỏ quê hương di cư và cuối cùng đi vào sống ở Goulag.
Tôi vừa nhận được một tờ giới thiệu sách, giới thiệu đến tôi cuốn sách tựa Pháp ngữ  là Les Abandonnés (Những kẻ bị bỏ rơi), tác giả là Tim Tzouliadis viết bằng Anh ngữ,  của nhà xuất bản J.C. Lattès, 516 trang,  Thierry Piélat  chuyển sang Pháp ngữ .
Tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả, để  gởi đến những ai còn « tin », còn « say  mê » Thiên Đường Cộng sản...
Năm 1931, ( trong sau khủng hoảng kinh tế 1929/30) Amtrog, văn phòng của cơ quan đại diện thương mại Liên bang Sô viết được đặt tại Manhattan New York ra quảng cáo tuyển dụng 6 000 công nhơn  di dân làm việc cho Liên Sô. Chỉ trong vòng vài tuần lễ, thiên hạ đỗ xô đi xin việc làm. Trên một trăm ngàn đơn xin việc. Nào là thợ hàn, nào là thợ mộc, nào là tay nấu bếp hạng cừ, nào là tay thợ điện thứ chiến, toàn là những người tử tế, lương thiện ...và một nhóm người  Cộng sản  thứ thiệt, đam mê, quá khích, bán nhà, bán cữa, bứt đứt giây rễ, hoan hỉ  ra đi, đầy tin tưởng. Đi về đất Liên Sô của Staline, đi về miền đất hứa, nơi không còn có giai cấp, nơi không có nạn thất nghiệp, nơi mà các thợ thuyền, công nhơn, đen hay trắng đều lên làm chủ. Chưa bao giờ có một số đông người Mỹ như vậy đã bỏ nước Mỹ ra đi  (cũng có vài  gia đình Âu châu và đặc biệt vài người Pháp ).
Tim Tzouladis, sau một thời gian tham khảo, nghiên cứu, (thơ, và chuyện kể trong gia đình của vài nhơn chứng còn sống sót, văn khố Mỹ ) đã viết cuốn truyện nầy để kể lại cho chúng ta những mẫu chuyện của những di dân nầy.  Thoạt mới đầu, thật sự là một thiên đường. Tại thủ đô Mạc Tư Khoa, dân di cư chơi base ball trên những thảm cỏ của công trường Gorki Park,  những di dân ôm nhau nhảy vũ trên những điệu nhạc jazz. Và mặt trời cũng lường gạt cả dân di dân, mùa Hè ấy trời ấm áp rất đẹp. Vào năm 1933,, khi nước Mỹ và Liên Sô giao hảo với nhau, thì cũng là thời điểm của  bộ máy của chánh sách khủng bố của Staline bắt đầu hoạt động. Nạn đói đang bắt đầu ở Ukraina, các nhà thờ đang bị phá sập, những cuộc bố ráp càng ngày càng  tăng dần.
Các di dân Mỹ bắt đầu hoảng sợ, họ muốn trở về quê cũ, nhưng đã quá trễ. Staline không để những nhơn chứng như vậy lọt ra ngoài. Khi mới nhập cảng vào Liên Sô, họ đã giao tất cả những thông hành Mỹ (passeport) cho các cơ quan cầm quyền sô viết. « Những kẻ bị bỏ rơi »  đểu bị đưa đi « học tập cải tạo » ở những « trại lao động cải tạo » ở Sibêria.
Đây là câu chuyện của những kẻ bị bỏ rơi:
Đây là chuyện của Thomas Sgovio, sanh viên hội họa. Anh đã sống 30 năm ở Liên Sô, nhưng 25 năm trong tại Lao động cải tạo. Anh là một kẻ sống sót.
Khi Joseph, cha anh vừa bị bắt, Thomas Sgovio hoảng hốt. 21 tuổi đầu chàng thanh niên quê  ở  Buffalo, Tiểu bang New York không biết làm gì hơn là chãy ngay đến nơi anh nghĩ là an toàn nhứt là Tòa Sứ Quán Hoa Kỳ nằm tại đường Moskhovạa. Cùng một lúc tất cả các Sứ quán của tất cả các quốc gia có mặt tại Liên Sô ở Mạc Tư Khoa đều bị tràn ngập bởi các di dân Mỹ xin được tỵ nạn .. rời Liên Sô. . .
Mười ngày sau, ngày 21 tháng 3 năm 1938, sau khi anh bạn Marvin  (của Thomas Sgovio) bị bắt, anh trở lại Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Mạc Tư Khoa , và , anh rất ngạc nhiên khi nhìn thấy phòng đợi của Tòa Đại sứ  hoàn toàn vắng vẽ giữa ban ngày, khác với lần trước, đầy chật những người nhẫn nại sắp hàng chờ đợi phiên mình được tiếp đón. Và anh được trả lời, hãy trở lại tuần sau, hồ sơ của anh đang được cứu xét. Không một ai báo cho anh biết là những đi lại và đơn xin trở về Mỹ là một điều nguy hiểm đến tính mạng anh. Anh rời Toà Đại sứ Hoa kỳ và đi ra về đầy với tấm lòng biết ơn và đầy tin tưởng.
Anh ra khỏi Tòa Đại sứ  lúc 11 giờ 15 và liền bị Công An Liên Sô NKVD ( tiền thân KGB) bắt nay ở quảng trường Sverdlov, bị đẩy lên một chiếc xe bịt bùng mầu đen và bị chở đến cơ quan Công An Trung Ương đường Loubianka ( Trước đây là trụ sở KGB). Lúc ấy Thomas  Sgovio mới 21 tuồi, anh sống ở nước Nga được 2 năm rưởi.
Rất khó cắt nghĩa những thái độ của các nhà ngoại giao Mỹ và các quốc gia khác có mặt tại Mạc Tư Khoa lúc bấy giờ. Có thể họ xem các di dân gốc Hoa Kỳ như những con chiên ghẻ đã bỏ xứ sở của mình ra đi. Cũng có thể là Bộ Quốc Phòng và Bộ Nội Vụ Hoa kỳ không muốn rước những « của  nợ  ấy », thành phần chống đối thiên tả bất hảo, đã không tiếp nhận được một xã hội Mỹ đang thời hậu khủng hoảng kinh tế  đầy khó khăn, và trước đó nước Mỹ đã nhìn thấy họ  ra đi không luyến tiếc.


Đây là một điển hình  : Vị Đại sứ Hoa kỳ tại Mạc Tư Khoa Ông Joseph Davies, khi vừa về đến Mỹ ngày 6 tháng 4 1937, với các phóng viên vây quanh phỏng vấn vì đói tin tức của một nước Nga khép kín, đã không ngần ngại tuyên bố, trong khi ấy tình hình khủng bố ở Nga đã được Staline đưa đến một giai đoạn đẩm máu:
«  Hiện nay, một cuộc thí nghiệm khá ngoạn mục và đầy hứng thú đang xãy ra tại Liên Sô. Đấy là một phòng thí nghiệm  khổng lồ, với những nghiên cứu tìm tòi sâu rộng để tạo một ngành hành chánh quản trị đát nước tốt. Liên Sô đang thành công ngoài sức tưởng tượng. Những nhà lãnh tụ chánh trị là một nhóm người nam như nữ đều có bản lãnh, đàng hoàng, chăm chỉ và đầy quyền uy. » (Une expérience  merveilleusement stimulante est actuellement menée en Union soviétique. C'est un immense laboratoire dans lequel les recherches les plus approfondies sont faites dans le domaine de l'administration de l' Etat. L' Union soviétique accomplit des choses extraordinaires. Les dirigeants politiques forment un groupe d'hommes et de femmes extrêmement capables, sérieux, travailleurs et puissants).
Đến những tay công an kiểm duyệt ở Nga cũng không tìm ra một lỗi nào trong  những lời tuyên bố của ông Đại sứ Mỹ.  Các báo chí ở Nga đã lặp lại toàn bộ những lời bàn và tuyên bố của ngài Đại sứ Mỹ.
Tại New York, Ngài Đại sứ Mỹ Joseph Davies không đá động gì đến  số phận các người di dân Mỹ đẵ bị mất tích, thậm chí ông cũng không nói đến những cú điện thoại của những thân nhơn các người bị bắt, ông cũng chẳng thèm cho báo chí hoa Kỳ biết đến chuyện những chuyến xe lữa đầy kiều dân Mỹ mà nhơn viên Sứ quán  nhìn thấy trên đường rời Mạc Tư Khoa. Và đặc biệt hơn nữa, Ông cũng không kể cho ai nghe việc bà vợ ông mất ngủ vi những tiếng động ồn ào quanh căn nhà Ông ở khu Spaso.
Chỉ có vài năm sau đó, khi ông và bà đã ly hôn với nhau, bà Marjorie Merriweather Post mớui thú nhận là bà đã nghe tiếng máy những chiếc xe bít bùng của Công An NKVD Liên Sô đậu trước những cao ốc chung quanh  vườn hoa của biệt thự của ông bà Đại sứ Mỹ. Và hàng đêm, đêm nầy qua đêm khác bà vẫn thường nghe những tiếng kêu cứu hay cầu nguyện của những gia đình  Mỹ kiều bị bắt và tiếng khóc sợ hãi  của những con trẻ bị bắt đi.
Thay lời kết:
Chuyện ấy đã xãy ra thời Cộng sản cực thạnh. Thế giới đang mê Công sản Chủ nghĩa. Bây giờ chắc không xảy ra đâu. Nước Nga lúc ấy đang đói, Staline đang thời quá độ.... Ai bảo đảm Việt nam ngày nay không bị nạn đói... " Năm 1931 vừa sau khủng hoảng 29/30, Nga nghĩ rằng chế độ Cộng sản siêu việt sẽ vượt qua tất cả. Ngày nay, khủng hoảng đang hoành hành, chưa chắc sẽ có giải pháp để thoát ra. Lúc bấy giờ dân Cộng sản Mỹ di dân vào Liên Sô, xây dựng chế độ chủ nghĩa Sô Viết. Ngày hôm nay, người Mỹ gốc Việt, người Pháp gốc Việt cứ trở về đi. Nếu rủi ro bị đàn áp, e rằng chạy đi không kịp. Mỹ và Âu Châu sẽ cứu kiều dân của họ  trong trường hợp gặp khó khăn.  Nhưng coi chừng ! Một người , hai người có thể cứu, nhiều quá, đem về làm sao lo đây" Vả lại các anh đả bỏ chúng tôi, việc gì chúng tôi cứu... Đây là một bài học đáng để chúng ta suy gẩm.
16 tháng 4 2009
Phan Văn Song
GHI CHÚ HÌNH: Từ góc trái, hàng trên, theo chiều kim đồng hồ. Ngồi bình an, đây là những ngày Hè vui khi vừa mới đến, trước những ngày Đông của Goulag.
Hình 1: Những nạn nhơn và những tòng phạm: Hội các công nhơn ngoại quốc Mạc tư Khoa tranh tài với Hội các công nhơn nhà máy xe hơi Gorki, Mac Tư Khoa tháng 6 1934. Trong buổi chiều hè oi bức, hai Hội gồm nhiều công nhơn gốc di dân Hoa kỳ tranh trận thư hùng « base ball americanski » trên những sân vận động Mạc Tư Khoa. Ủy ban tối cao Thể dục Thể thao Sô viết  ra Nghị định là Môn thể thao nầy là một  « thể thao quốc gia ».
Hình 2: Kẻ sống sót: chân dung Thomas Sgovio, hôm bị bắt lần thứ hai, năm 1948. Hôm ấy, Thomas Sgovio, sanh viên trường Mỹ Thuật, bị nhốt kín, chật chội,  trong một toa xe lữa cùng 70 tù nhơn khác, rời Mạc Tư Khoa, lên đường đi về phía Đông, và sống 25 năm trong một Goulag, trại lao động cải tao.
Hinh 3: Cực đoan: Giữa hình: ca sĩ Hoa kỳ paul Roberson, người yêu chuộng thế giới sô viết, trong một bửa tiệc kỷ niệm 33 năm ngày Cách mạng Sô viết thành công tại Tòa Đại sứ Liên Sô tại Hoa kỳ, ở Wasshington năm 1950. « Ở Nga, tôi thực sự là con người. Ở đấy khôngbao giờ có chuyện kỳ thị mầu da ».

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.