Không đầy hai tháng sau, bạo loạn bùng nổ trên đất Pháp. Hàng đêm, lửa khói rực trời Paris, và nhiều thành phố khác. Hàng ngàn xe (cho đến nay, đã có trên chín ngàn xe hơi bị đốt), công thư, nhà thương, trường học, khu thương mãi bị đốt. Cuộc bạo loạn của con cháu những người Pháp da den gốc Bắc Phi và Ả rập hồi giáo đang bùng nỗ vì những dồn nén bất công, nạn kỳ thị sắc tộc, và những bất lực của chính quyền trên một đất nước vẫn tự hào là xứ của tự do, bình đẳng và bác ái (liberté, égalité, fraternité).
Bạo loạn là sản phẩm của hai chữ tự do, và những trò chơi nhân danh tự do, bình đẳng. Bạo lọan là một phương sách đấu tranh, chính đáng, để đòi hỏi quyền lợi luật định, xóa bỏ bất công, hay không chính đáng, đến từ những âm mưu. Xã hội nào cũngvậy, ngay cả trong những hệ thống tiên tiến nhất, cũng có những bất toàn, những nhức nhối, những vấn đề không dễ giải quyết, những cơn sóng ngầm chờ cơ hội biến thành cuồng nộ. Không kể những rối loạn nhỏ, những vụ bạo loạn lớn cũng đã xẩy ra ở Mỹ, tại Los Angeles năm 1992, và bây giờ, trên đất Pháp, xứ của truyền thống tổ chức xã hội từ lâu đời được xem là trên, trước, và hoàn hảo nhất. Bạo loạn, nếu có gây ra những rối loạn nhất thời, những tàn phá, thì về khía cạnh tích cực, là một thôi thúc sửa đổi để hoàn chỉnh những sai lầm, khiếm khuyết tiềm ẩn của hệ thống, miễn hồ không gây nhiều tác hại đáng tiếc. Riêng trong tháng vừa qua, đã có 14 vụ bạo loạn xẩy ra trên nhiều vùng thế giới, từ tây bán cầu, qua Phi châu, Á châu. Cho nên, vụ bạo loạn hiện nay ở Pháp cũng chỉ là một biến cố tất nhiên khi xã hội còn những vấn đề chưa có giải pháp thích đáng.
Trong vụ bão Katrina, một thiên tai, tổng thống Bush mất hai ngày mới lấy lại được bình tĩnh để đưa ra biện pháp cứu nguy. Ông đã nhận lỗi trước quốc dân về sự chậm trễ và thiếu sửa soạn này, và cũng nhận lỗi về những sơ hở chính sách khiến đã gây ra một tình trạng bất bình đẳng mà những người Mỹ da đen đã phải gánh chịu trong mấy trăm năm qua. Không ai nghi ngờ sự chân thật của ông Bush. Trong vụ bạo loạn đang xẩy ra tại Paris, lan qua hầu hết các tỉnh, thị lớn ở Pháp, và đang có cơn lan qua Âu châu, tổng thống Jacques Chirac đã hoàn toàn im lặng trong suốt 11 ngày, và khi ông lên tiếng, ông đã cũng chỉ mập mờ thú nhận những thiếu sót trong chính sách di dân, kêu gọi bình tĩnh, mà không đưa ra một đường hướng giải quyết nào. Jacques Chirac cho người dân cảm tưởng ông bị tê liệt trước tình thế, hay ông đang muốn đứng ra ngoài biến cố. Điều này khiến người dân Pháp lo ngại, vì thực tế cho thấy đa phần các vụ bạo loạn xẩy ra không phải chỉ đơn thuần vì những bất ổn xã hội, mà động lực chính đàng sau thường là những thao tác hoạt đầu của những xu thế chính trị, hay tôn giáo.
Vụ bạo loạn ở Paris nổ ra từ một biến cố nhỏ: đêm 27 tháng 10, có mấy trẻ vị thành niên vùng ngoại ô Clichy-sous-Bois, phía đông bắc Paris, không hiểu vì một lý do gì, chạy vào một trạm biến điện cao thế trốn cảnh sát. Có hai trẻ, Bouna Traore, 15 tuổi, gốc Mali, và Zyed Benna, 17, gốc Tunis, bị điện giật chết. Tối hôm đó, một số thanh thiếu niên gốc Bắc Phi và Ả rập Phi châu ào xuống đường đấp phá, nổi lửa đốt xe cộ để phản đối sự bạo hành của cảnh sát. Bạo hành lan rộng vì một quả lưụ đạn cay của cảnh sát rơi vào trước cửa một giáo đường hồi giáo, và những lời tuyên bố cứng rắn, vụng về của bộ trưởng nội vụ Sarcozy. Chuyện thật hư chưa rõ, nhưng báo chí, truyền thông thổi phồng sự việc, và đối lập nhảy vào đã kích chính phủ, đổ thêm dầu vào lửa, khiến tình hình mỗi lúc một trầm trọng hơn. Chính phủ không dám thi hành biện pháp mạnh, nên trong những ngày kế tiếp, cuộc bạo loạn, được phối hợp trên mạng internet, lan mạnh đến tất cả các vùng ngoại ô nghèo nàn của Paris, và qua gần 200 vùng tỉnh thị lớn ở Pháp.
Nước Pháp có một tổ chức xã hội và đời sống ổn cố nhờ một chiều dài lịch sử nằm trong tâm điểm của những nền văn minh và văn hóa cao, một dân tộc thuần nhất, và những nỗ lực không ngừng phát triễn, hoằng dương ý niệm tự do, dân chủ và công bằng. Trong hai thế kỷ 18 và 19, chủ nghĩa thực dân đa mở rộng biên cương quốc gia đến những vùng đất mới, gần như bắc Phi, xa như đông nam Á, tây bán cầu, và biến Pháp trở thành một đế quốc hùng mạnh về kinh tế cũng như chính trị. Nhưng cũng vì chính sách này, nước Pháp phải gánh thêm những trách nhiệm liên đới với các vùng đất thuộc địa xa xôi và kém mở mang. Hậu bán thế kỷ 20 đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân. Theo với cuộc cuốn cờ trở về mẫu quốc, là những đoàn người di dân từ những vùng thuộc địa cũ. Hàng triệu dân Bắc Phi, và các nước Ả rập hồi giáo đã đến nhập cư ở Pháp sau khi Pháp trả lại độc lập cho các nước Maroc, Algeria, Tunisia,...và các nước Phi châu khác. Tiếp theo làn sóng di dân đó, là những người nhập cư đến sau do những liên hệ huyết tộc, đòan tụ gia đình, và những thế hệ di dân thứ hai, thứ ba,...Cho đến nay, có khoảng 5 triệu người Pháp gốc Phi châu và Ả rập, chiếm gần 10% dân số. Xã hội Pháp do vậy ngày càng phức tạp, ngày càng có nhiều vấn đề hơn.
Người Pháp chính thống, tự hào với nền văn hóa và văn minh, tự hào về khả năng đồng hóa và hội nhập các dân tộc khác, từ ban đầu, luôn chối bỏ thực tế về một xã hội đa dạng, tạp chủng. Họ tin rằng mỗi khi đã đến và đã sống trên đất Pháp, người di dân sẽ trở thành người Pháp, sẽ bị Pháp hóa, sẽ hành sử và ứng xử như một người Pháp, dầu không chính gốc gaulois, và do vậy, Pháp chủ trương một chính sách di dân không màu sắc, colorless policy. Điều này phản ảnh đúng niềm tự hào dân tộc, và cũng có thể đúng cho thế hệ di dân thứ nhất, khi nhu cầu tìm sống, với những khó khăn và chật vật lúc ban đầu đã khiến họ quên đi bản chất, nguồn gốc, phong tục, tập quán, đồng thời chấp nhận những khác biệt đối xử trong đời sống hàng ngày như một đương nhiên. Nhưng với những thế hệ con cháu của những người di dân thứ nhất, bây giờ đã là những người Pháp, được sinh ra và lớn lên trên đất Pháp, thì họ không bao giờ có thể bằng lòng với số phận của một loại công dân hạng hai, và vì thế, họ trở thành một tập thể quần chúng bất mãn, đối kháng, và sẵn sàng nổi loạn.
Lớp người di dân thứ nhất, đến trên đất Pháp 50 năm, 100 năm trước, đã không thành công trong nỗ lực tạo dựng cuộc sống mới. Sự thất bại một phần từ bản chất, nhưng nguyên nhân chính vẫn là những cấu kết truyền thống của một hệ thống xã hội lâu đời nặng tính trưởng giả. Ngày mới đến Pháp, họ bị cô lập trong những chung cư tập thể, được xây cất vội vàng ở những vùng ngoại ô quanh Paris và những thành phố kỹ nghệ lớn. Họ được hưởng trợ cấp xã hội, dịch vu y tế, những điều kiện sống căn bản, được huấn nghệ, được đi học như những người dân Pháp ở giai tầng thấp nhất. 50 năm sau, họ vẫn còn ở những nơi đó, không có gì khá hơn, nếu không muốn nói là tệ hơn lúc trước nhiều. Không mấy người di dân cũ thoát khỏi được cảnh sống bùn lầy, tồi tệ đó. Dẫu đã có những ngoại lệ, đã có những thành công, nhưng tỷ lệ này quá ít. Không mấy người Pháp gốc Phi châu, hay Ả rập hồi giáo đắc cử vào các cơ quan dân cử, hay nắm giữ các chức vụ thẫm quyền trong nội các. Cho nên, họ không có tiếng nói. Những vùng họ sống, không một người Pháp chính gốc nào muốn bước chân tới, và thật sự không hiện diện dưới mắt du khách. Chung cư mỗi ngày một đông, chật chội, xuống cấp, cha mẹ không còn đủ sức chăm sóc con cái. Những đứa trẻ, được sinh ra và lớn lên, không đủ sức vùng vẫy, thất bại ở học đường (70%), thất nghiệp (50%), thường tụ tập ngoài đường, kết bè kết nhóm, phá phách và những băng đảng tội phạm thành hình. Quanh Paris, những khu ngoại ô như Bobigny, Aulnay-sous-Bois, Clichy-sous-Bois,...chỉ cách vùng ánh sáng của kinh đô ánh sáng chỉ mấy dặm thôi, là những vùng tối tăm, vùng của tội ác, của tội lỗi, cần sa, ma túy. Chính phủ, trong chính sách không phân biệt đối xử, phủ nhận nguồn gốc sắc tộc, đã không thể có những nỗ lực đáng kể để đưa ra những chương trình trợ giúp đặc biệt. Tệ hại hơn, còn xem những biện pháp nhập trường theo quota (affirmative action), chống kỳ thị tại trường học như ở Mỹ là không thực tế và ấu trỉ. Tập thể những người da đen trên đất Pháp ngày càng trở thành những vấn đề lớn cho xã hội, những gáng nặng, những cái gai nhức nhối cho cộng đồng da trắng bản xứ. Nạn kỳ thị tiềm tàng trong đầu óc của những người Pháp chính gốc, đến từ ngay trong cái nhìn của những di dân thành công.
Cho nên, nói theo luận điệu của Nicolas Sarcozy, con của một người di dân gốc Hung gia lợi, bộ trưởng nội vụ đương nhiệm: Xã hội không đồng đều cho mỗi cá nhân, mỗi người phải cố gắng để thoát cảnh nghèo khó. Đành là thế. Nhưng làm sao thoát cảnh nghèo khó khi tỷ lệ thất nghiệp trong vùng lên đến 50%, khi đĩ điếm và ma túy là hai kỹ nghệ lớn nhất, và khi những đứa trẻ lớn lên không thể thoát khỏi vùng ao tù vì không thể xin được nhà ở, kiếm được việc làm ở những vùng khá hơn. Hàng đêm, Sarcozy xuất hiện nơi hiện trường của các vùng bạo động, đã gọi lũ trẻ bất mãn, đập phá đó là những phường vô lại (voyou=street arab), những kẻ lưu manh, dân đen bỉ ổi, những cặn bã xã hội (racaille=scum). Nicolas Sarcozy bị quy trách là nguyên nhân làm bạo loạn bùng lên đến độ không còn kiểm soát được. Sự quy trách đó có phần phiến diện, khi mà Sarcozy vẫn còn được phần đông dân chúng Pháp ủng hộ (57%), khi mà chính sách bất khoan nhượng , zero-tolerance, của ông, trong thực tế là chính sách của hệ thống, và là sự suy nghĩ thầm kín của đa phần người dân Pháp. Có trách ông, là trách thái độ thiếu tế nhị của một người có trách nhiệm, trách ông đã nói ra những điều cấm kỵ.
Cho đến hôm nay, sau 3 tuần bạo loạn, với chín ngàn xe cộ bị đốt, tình trạng đã có phần yên lắng. Một phần do bởi tình trạng khẩn trương được ban hành, và lệnh giới nghiêm được áp dụng, và chính quyền cứng rắn hơn trong nỗ lực tái lập trật tự. Phần khác, lửa bùng lên thì cũng có lúc phải xẹp xuống. Như vậy cững vừa đủ. Ai cũng mệt mõi rồi. Chính Phủ của Dominique de Villepin đề nghị một số cải tổ nhằm nâng đở cộng đồng da đen: tăng 25% ngân sách xây cất chung cư, nâng cấp giáo dục, hướng nghệ (bắt đầu ở tuổi 14), trợ cấp thêm cho các hội đòan , vân vân và vân vân. Tất cả chỉ là những biện pháp cấp thời nhằm thõa mãn một số đòi hỏi, và giải quyết những vấn đề xã hội hiện hữu của một thành phần xã hội không thể gạt bỏ. Điều quan trọng nhất là một chính sách di dân hiện chưa được nói đến.
Mỹ quốc được xây dựng nên từ những người di dân. Với một lịch sử 250 năm lập quốc, với những đợt sóng người không ngừng đổ xuống từ khắp mọi vùng trên thế giới, với một tinh thần, một cái nhìn tương đối hòa hoãn, một thái độ chấp nhận dị chủng, một nỗ lực không ngừng của chính quyền, của các tổ chức ngoài chính quyền (NGO, non governmental organizations), của các hiệp hội, và ngay từ mong muốn sâu xa trong lòng của mỗi người dân, vấn đề kỳ thị chủng tộc vẫn còn là một nhức nhối hàng ngày, và hàng đầu trong cái xã hội tạp chủng này. Chỉ vì một lý do đơn giản: con người sinh ra vốn đã không bình đẳng. Đó là một vấn đề bản chất. Xã hội và luật pháp Mỹ xây dựng trên căn bản cung ứng cho mọi người một sự đồng đều trong cơ hội, equal opportunities. Bỏ qua đi mặt trái của cái cơ cấu tổ chức xã hội, bỏ qua đi những khai thác, bóc lột, lưu manh của giai tầng trên trước,...để chỉ nói đến nguyên tắc, đến cái tốt, thì cơ hội được đặt lên mâm vàng dâng hiến cho mọi người, bất cứ mọi người. Nhưng có nắm bắt được cơ hội hay không, và khi nắm bắt được cơ hội có biết khai thác cơ hội để thăng tiến hay không, thì đó là một vấn đề khác. Cũng vậy, xã hội, và người hữu trách trong tổ chức xã hội, phải trách nhiệm về mọi phúc lợi, trên mọi lãnh vực, cho mọi người dân. Nhưng làm sao bắt xã hội phải trách nhiệm về sự ngu dốt của mỗi cá nhân. Đó cũng là một vấn đề bản chất, một vấn đề cấm kỵ, taboo, không ai được đụng đến. Và vì không được đụng đến, cho nên những điều cấm kỵ đã trở thành những quy trách dễ dàng nhất cho những bất toàn. Tại sao cộng đồng di dân non trẻ của những người gốc Việt trên đất Mỹ đã đốt giai đoạn để trở nên vững mạnh trong một thời gian 30 năm. Tại sao, với những trợ giúp không ngừng của chính quyền, của các tổ chức, từ bao nhiêu năm qua, vẫn còn không biết bao nhiêu người di dân sống nghèo khổ, lạc hậu trong những vùng ổ chuột tràn đầy mọi nơi, những vùng mà người Mỹ quen gọi là những cái pockets of poverty, trong đó những thế hệ 12 năm sống chen chúc với nhau, không nói được tiếng Mỹ, không nhìn xa hơn miếng bánh mì, chai rượu bia mỗi buổi chiều, nói chi đến tương lai, hay một ngày mai tươi sáng"
Với một chiều dài lịch sử cố gắng không ngừng sửa chữa, canh cải, nạn kỳ thị chủng tộc vẫn còn là một vết nhơ của tổ chức xã hội Mỹ. Nói chi đến xã hội Pháp, dầu là xứ sở của những tư tưởng tiến bộ và bao dung nhất, chính cái tinh hoa của dân tộc, cái tinh thần tự tôn, superiority, về dòng giống đã là bức tường thành ngăn chận mọi cơ hội hội nhập của những người dân da đen di dân. Luật pháp và tài nguyên quốc gia không là những phương tiện tất yếu để giải quyết cái bản chất của vấn đề. Đó là không kể đến những điều quá cứng rắn trong chính sách. Thật khó hiểu nỗi cái quyết định cấm các nữ sinh gốc hồi giáo mang mạng che mặt đến trường học của chính phủ Pháp.
Khía cạnh chính trị và nhân sinh đã khó giải quyết. Vấn đề kinh tế còn khó thỏa mãn hơn. Tại Mỹ, di dân là guồng máy kinh tế chủ yếu, làm quốc gia phát triển và mạnh thêm. Từ 1992 đến năm 2000, 10 triệu di dân đến Mỹ. Những người di dân này không giành cướp công việc, ngược lại, tạo thêm công việc, thúc đẩy thăng tiến lao động, tăng mức sản xuất , tăng sản lượng, tăng lợi nhuận cho lớp người đến trước. Tại Pháp, tại Âu châu trong 30 năm qua, thị trường công việc ngày càng eo thắt lại, phần vì cái lục địa đó ngày càng chật chội, phần khác những đòi hỏi phải được thỏa mãn của người dân đã làm giảm dần hiệu năng cần lao: thì giờ làm việc ít hơn (35 giờ/năm ngày mỗi tuần), quyền lợi lao động và hưu bổng nhiều hơn, sa thải nhân viên khó khăn hơn. Trong những điều kiện như vậy, những đứa trẻ lớn lên từ cộng đồng di dân, sự hiện diện của những người nhập cư mới trở thành mối đe dọa sống còn trong một xã hội không nhiều cơ hội. Cho nên, giải quyết vấn đề đòi hỏi những cải tổ sâu rộng từ gốc rễ.
Trong nhiều năm qua, các chính phủ Pháp, tả cũng như hữu, đã không có can đảm nhận chân thực tế, tìm kiếm giải pháp và thật tâm giúp đở tập thể những người da đen bắc Phi, và Ả rập hồi giáo, và biến cố vừa qua chỉ là một giọt nước làm tràn ly.
Sau cuộc trưng cầu dân ý về một hiến pháp cho Liên hiệp Âu châu thất bại tại Pháp cuối tháng 5, 2005, uy thế chính trị của Jacques Chirac hình như không còn gì nữa. Thế hệ lãnh đạo của những chính trị gia lớn lên và trưởng thành trong đệ nhị thế chiến chắc sẽ cáo chung với sự ra đi của Jacques Chirac trong 18 tháng nữa, nhường chỗ cho một thế hệ lãnh đạo mới nhiều khả năng dung nhượng hơn, ít tự hào về quá khứ hơn, ít quan lại hơn, và thực tiển hơn. Đó là thế hệ của những người như Dominique De Villepin, như Nicolas Sarcozy,... ở tuổi 50. Cuộc bạo loạn đang xẩy ra trên đất Pháp có thể cũng chỉ là bề mặt của một cuộc đấu tranh chính trị ngầm giữa hai thế hệ, giữa hai quan niệm nhân sinh và nhân quyền, giữa hai ý niệm và phương cách lãnh đạo.
Cuộc bạo loạn vừa qua ở Pháp, tổn thất lên đến 250 triệu Euro, ngành du lịch Pháp bị khựng lại, các chính khách Pháp đổ lỗi cho báo chí, truyền thông Mỹ đã thổi phồng quá đáng , làm mất mặt nước Pháp trước qốc tế. Lời qua tiếng lại của hai anh chàng cường quốc đồng sàn, dị mộng trước những lủng củng nội bộ, vẫn là những dịp hiếm có để được châm biếm nhau.
Từ Nguyên Nguyễn Văn Thuận.
15-11-2005