Trong chương trình sinh hoạt của Hướng Đạo cũng như nhằm mục đích bảo tồn và phát huy âm nhạc cổ truyền, quý Trưởng Niên Hướng Đạo vùng Hoa Thịnh Đốn đã tổ chức một buổi thuyết trình tìm hiểu về Cổ Nhạc Miền Nam, vào lúc 5 giờ chiều ngày 27 tháng 11, 2005 tại Làng Bách Hợp, Falls Church, VA.
Trong buổi thuyết trình này có sự hiện diện Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên, Giáo Sư Kim Oanh và các ca nhạc sĩ đoàn "Sân Khấu Phương Nam".
Mở đầu Bác sĩ Nguyễn Thanh Long giới thiệu về lịch sử của cổ nhạc và cải lương. Các Chúa Nguyễn di dân từ miền Trung vào miền Nam, khai khẩn đất hoang, có nhiều nhạc sĩ Triều Đình Huế và dân cư di chuyển vào miền Nam, thêm vào đó là ảnh hưởng của người miền Nam đưa tới sự hình thành của một loại nhạc, gọi là " nhạc tài tử " vào đầu thế kỷ 20.
Chữ "tài tử" ở đây có nghĩa là người có tài, nhưng cũng có nghĩa là không chuyên nghiệp. Muốn nghe những tiếng đàn tài tử không phải có tiền là nghe được, vì tài tử chỉ gặp nhau trong những buổi trình diễn để thưởng thức tài nghệ chứ không đàn hát để kiếm tiền sinh sống.
Trước kia, rải rác ở Miền Nam có các ban tài tử đàn ca trong các buổi lễ tại tư gia như tân hôn, thăng quan hay ngày giỗ.. chứ không có đàn ca trên sân khấu trước công chúng. Ngày xưa ở VN không có lối trình diễn nào khác ngoài hát chèo và hát tuồng ở miền Bắc và hát bội ở miền Nam và miền Trung.
Cải lương ra đời từ năm 1910, phát triển mạnh năm 1917. Điệu hát này tân tiến hơn hát bội nên người ta đặt tên "cải lương" cho điệu hát mới mẻ này. Về sau cải lương được nhiều người hăm mộ vì rất dễ hiểu , lời văn giản dị, gần gũi với đời sống hằng ngày, nội dung các tuồng cải lương đi sát với quần chúng, thích hợp với đời sống mộc mạc của người dân quê, người bình dân của xã hội VN .
Ông Nguyễn Thành Châu , tự Năm Châu, vừa là soạn giả, vừa là đạo diễn kiêm diễn viên, nhờ có trình độ văn hóa (có bằng Thành Chung), nên trong hơn bốn mươi năm trong nghề ông đã có công lớn trong việc nâng cao trình độ cổ nhạc nước nhà. Năm 1964 Ông Năm Châu đã đưa tân nhạc vào cải lương, gọi là "Tân Cổ Giao Duyên".
Vọng cổ ra đời năm 1919. Có người cho rằng vọng cổ xuất phát từ người Chàm, họ hát để tưởng nhớ thời xa xưa, mất nước. Sự thực thì trong một hoàn cảnh éo le, một nghệ sĩ ở nông thôn Miền Nam đã sáng tác ra bản vọng cổ đầu tiên, đó là bản "Dạ Cỗ Hoài Lang". Bản này do ông Cao Văn Lầu, tức Sáu Lầu sáng tác.
Kế đến Bác Sĩ Nguyễn Thanh Long giới thiệu qua các nhạc khí cổ nhạc gồm có Vĩ cầm, Lục Huyền Cầm, Đàn Cò, Đàn Hạ Uy Di ..
Phân tích, so sánh với nhạc Tây phương. Bác sĩ Long cho biết, về các nốt đàn thì nhạc Tây Phương có 7 nốt: Do, Ré, Mi, Fa, Sol, La, Si và nốt thăng (sharp), giảm (flat). Cổ nhạc Miền Nam cũng có bảy nốt là Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Liếu, Ú. Sự thực là chỉ có năm nốt gọi là "ngũ âm". (Liếu và Ú là nấc trên của Hò và Xự).
Nốt nhạc VN không có nốt thăng và giảm, nhưng có vô số tiếng "ngân" nhất là ở vào cuối nhịp hay cuối câu. Vì vậy không thể nào dùng một nhạc khí Tây phương không có ngân để diễn tả cổ nhạc Miền Nam, thí dụ như đàn dương cầm. Còn nếu muốn dùng nhạc khí có dây Tây Phương như Mandoline hay Guitar thì trên cán đàn phải "khoét lỏm" ở chổ bấm nốt để có thể ấn" mạnh, nhẹ" xuống dây đàn hầu thay đổi sự căng thẳng của nó để ngân.
Trong nhạc Tây Phương một bản nhạc là một tác phẩm do nhạc sĩ sáng tác, viết ra để cho tự mình chơi, hay người khác chơi, mỗi khi chơi thì đánh không sai một ly những nốt đã viết trong bản nhạc. Còn cổ nhạc Miền Nam thì không có lối viết nhạc nên nhạc sĩ không có bản nhạc trước mắt.
Có thể nói nhạc sĩ cổ nhạc Miền Nam ngay lúc đàn, sáng tác một bản nhạc theo điệu nào đó , trong một cái khung hay theo cái mẫu nào đó. Nếu được thu băng rồi đem ra phân tích từng nốt nhạc và lúc ngưng nghỉ thì sẽ thấy nhạc sĩ chơi tùy ý, tùy hứng, tùy lúc, bản nhạc nghe có khác, mặc dầu chung chung biết là nó theo điệu gì, mẫu gì.
Về điệu đàn thì nhạc Tây phương có nhiều điệu nhưng thông thường nhất là hai điệu "Trưởng" và "Thứ". Còn cổ nhạc Miền Nam thì có ba điệu, mỗi điệu có một tách chất riêng biệt và một số bài căn bản:
Điệu Bắc thì vui tai, có vẻ liến xáo, đàn nhanh, nhịp lẹ, ngân ít, như Bình bán, Phú lục, Tây thi, Cổ bản, Lưu Thủy, Hành vân, Kim tiền, Khổng Minh tạ lầu, Xàng xê..
Điệu Nam thì thông thả hơn, ngân vừa , nhịp khi nhặt khi thưa và phải gây ra một cảm tưởng trầm ngâm, bình thản, nghiêm trang như Đảo ngũ cung, Nam xuân, Nam ai..
Điệu Oán thì thông thả hơn, ngân nhiều, buồn rầu, oán hận, thở than như Tứ đại oán, Văn thiên tường, Trường tương tư, Bình sa lạc nhạn..
Về lối kiến trúc các cơ cấu của bản nhạc, trong bản nhạc Tây phương mỗi nhịp được chia làm nhiều" thì" như 2/4, 3/4 hay 4/4. Còn trong cổ nhạc Miền Nam có nhịp mà không có "thì" (temps) nên nhạc sĩ là người sáng tác tùy ý, tùy hứng mà đánh bao nhiêu nốt trong một nhịp, nghĩ bao nhiêu lần, bao nhiêu lâu cũng đựơc miễn là canh nhịp cho đúng để những chổ có nhịp chính thì đánh cho đúng cái nốt bắt buộc ở đó (gọi là xuống nhịp cho đúng).
Về cách trình diễn thì nhạc Tây phương bắt đầu ngay vào bản nhạc. Còn cổ nhạc thì bắt đầu bằng một hồi "rao". Nghĩa là đàn theo một điệu nào đó (điệu Bắc, điệu Nam hay điệu Oán) mà không phải theo khung mẫu của bản nào hết, hoàn toàn tùy ý, tùy hứng. "Rao lên " để tạo bầu không khí và người nghe biết nhạc sĩ sẽ đàn điệu gì (Bắc, Nam hay Oán).
Một tác dụng khác của "rao" là để so dây đàn. Và tác dụng thứ ba của "rao" là để người nhạc sĩ biểu diễn. Đàn mà không bị ràng buộc bởi cái khung mẫu nào hết thì nhạc sĩ tha hồ biểu diễn những ngón đàn đặc biệt của mình, để tỏ ra mình là người tài năng . Người sành nhạc, chỉ nghe "rao" thôi đả có thể đánh giá và sắp hạng nhạc sĩ.
Rao xong thì vào bài, nhạc sĩ "cầm canh" , hay "giữ nhịp" gõ vào một nhạc cụ nghe tiếng "cóc" tức là bắt đầu. Trong suốt thời gian đàn, thỉnh thoảng nghe tiếng "cóc" để chấm câu hoặc để đánh dấu một vài nhịp chính trong câu. Nhịp "song loan" có tác dụng như xuống dòng trong một bản văn viết.
Nối tiếp chương thuyết trình là phần trình diễn của các ca nhạc sĩ đoàn Sân Khấu Phương Nam. Mở đầu là một bản hòa tấu, thanh âm rộn rã vui tươi đã gợi khán giả nhớ lại những ngày tháng yên bình trên quê hương Miền Nam hiền hòa thân yêu.
Nhạc sĩ lão thành Trịnh Phước Chí, đàn vĩ cầm, trên bốn mươi năm kinh nghiệm, ông là một trong những tay đàn tài hoa nhất vùng HTĐ. Ông có thể sử dụng nhiều loại đàn như vĩ cầm, lục huyền cầm, đàn cò.. Ca nhạc sĩ Trường Tương Tư, ca bài Xuân Tình "Đơn Hùng Tín", ngoài tài đàn, ông còn có tài diễn xuất và có giọng ca hùng hồn của một võ tướng trong các tuồng cải lương.
Nhạc sĩ Duy Linh, đàn lục huyền cầm, trên mười sáu năm kinh nghiệm, có phong cách trình diễn thật lôi cuốn, quyến rũ. Tiếng đàn của anh thật tuyệt diệu, như nhảy múa trên cung tơ, lúc thì vời vợi buồn xoáy động tâm tư, lúc thì tung tăng reo vui như đang trên lối về quê mẹ.
Nghệ sĩ Đính Hùng có giọng ca thật truyền cảm, làm khán giả nhớ tới Út Trà Ôn, Thành Được. Đính Hùng là một trong những ca sĩ cổ nhạc nổi tiếng ở vùng HTĐ. Nữ nghệ sĩ Ái Kim thu hút khán giả say mê lắng nghe bài "Dạ Cổ Hoài Lang" của nhạc sĩ Sáu Lầu. Lời ca cùng tiếng nhạc đã rót vào tâm tư người nghe những giọt sầu thật nồng nàn, thấm thía. Cô Huyền Linh đã làm khán giả ngạc nhiên thích thú với giọng ca trong sáng, thánh thót. Từ điệu Lý Con Sáo qua Nam Ai đến Tân Cổ Giao Duyên "Rừng Lá Thấp", tiếng hát của Huyền Linh lúc nức nở chơi vơi, lúc dào dạt tuyệt vời... Những nghệ sĩ trên đây là những tài năng cổ nhạc hiếm quý ở vùng Hoa Thịnh Đốn nói riêng và ở hải ngoại nói chung.
Trong dịp này Giáo Sư Kim Oanh cũng nói qua về sự liên quan giữa dân ca và cổ nhạc Miền Nam, xong cô trình tấu đàn tranh bài Lý Con Sáo theo dân ca Miền Trung.
Ban tổ chức gồm các Trưởng Niên của Hướng Đạo, Làng Bách Hợp và các ca nhạc sĩ đoàn Sân Khấu Phương Nam đã đem đến cho khán thính giả nhiều hiểu biết quý giá về cổ nhạc Miền Nam và một buổi trình diễn tuy ngắn nhưng thật xuất sắc, góp phần không nhỏ trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc ở hải ngoại.
Chương trình chấm dứt vào lúc 8 giờ tối cùng ngày.