Hôm nay,  

Giải Trừ Lạm Phát Tại Việt Nam

4/21/201100:00:00(View: 11238)

Giải Trừ Lạm Phát Tại Việt Nam

Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng RFA

...chính nỗ lực giải trừ lạm phát một cách lụp chụp còn gây thêm vấn đề...

Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và đạt tốc độ tăng trưởng ngoạn mục đến 8,5% vào năm 2007, Việt Nam cũng bị suy trầm cùng toàn cầu trong hai năm 2008-2009 mà vẫn giữ tốc độ tăng trưởng cao là 6,3% rồi 5,3% vào hai năm đó. Khi kinh tế thế giới hồi phục từ năm 2010, Việt Nam đạt mức tăng trưởng là 6,8%, tức là còn lớn hơn dự báo là 6,5%. Nhưng cũng từ đấy, nhiều dấu hiệu bất ổn đã xuất hiện và đưa đến hỗn loạn, thậm chí khủng hoảng từ đầu năm nay, với lạm phát đang là mối quan tâm của mọi người. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về các biện pháp giảm trừ lạm phát được áp dụng từ đầu năm nay. Xin quý thính giả theo dõi phần trao đổi cùng nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, trong chương trình phát thanh ngày sáu tháng Tư cách đây hai tuần, ông có giải thích nguyên ủy của vụ khủng hoảng ngày nay tại Việt Nam là sự lạc quan thiếu cơ sở sau khi gia nhập Tổ thức Thương mại Thế giới từ năm 2007. Chương trình kỳ này xin đề nghị ông phân tích về bối cảnh của vấn đề, về các biện pháp ứng phó của chính quyền, đặc biệt với đà vật giá gia tăng, trong đó có cả quyết định cấm kinh doanh vàng miếng và trao đổi bằng đồng đô la. Ông nghĩ sao"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Như mọi khi, tôi sẽ xin trình bày về bối cảnh trước và sau đó sẽ phân tích vấn đề trước khi có thể nói đến những giải pháp hay đề nghị.
- Trên diễn đàn này, qua các năm 2004 đến 2006, bản thân tôi là thiểu số đã liên tục dự báo rằng Việt Nam chưa thể gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO năm đó. Và còn nói thêm rằng đấy là điều may vì cho Việt Nam thêm cơ hội tìm hiểu về các thách đố mới và để chuẩn bị những biện pháp cải cách. Sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO và đạt quy chế mậu dịch bình thường và vĩnh viễn với Hoa Kỳ từ năm 2007, cũng diễn đàn này đã nói đến một nhu cầu mà khi đó tôi gọi là "Cách mạng về Thông tin", để cả chính quyền lẫn quốc dân cùng hiểu thấu về những quy luật sinh hoạt kinh tế quá mới cho Việt Nam.
- Chuyện thông tin ấy không xảy ra vì mọi người đều hồ hởi với tương lai trước mặt. Chính quyền còn coi đó là công lao thành tích của mình. Nghĩ lại thì không ai dụ dỗ hay lường gạt mình bơi ra biển lớn để bắt cá to, đấy là yêu cầu tự nhiên của quốc gia mà thôi. Nhưng khi đã ra tới biển xanh để tranh hùng với thiên hạ thì cũng phải biết rằng mình sẽ gặp sóng lớn và phải thay đổi cách suy nghĩ và hành xử. Hậu quả của hiện tượng hồ hởi lạc quan mà thiếu chuẩn bị là đánh giá sai chuyện "được- mất" trong tiến trình hội nhập ban đầu.
- Cụ thể là đòi vươn vai phóng ra biển lớn với lượng tín dụng dồi dào, lại có thêm tư bản ào ạt tràn tới như gió thuận buồm thổi từ sau lưng. Chính là lượng tư bản quá lớn lao đó đã đẩy một con thuyền thật ra còn mong manh vào cơn bão tố khi kinh tế thế giới bị suy trầm toàn cầu vào các năm 2008-2009. Vì vậy, từ năm 2010, Việt Nam bắt đầu gặp khó khăn mà lãnh đạo xứ này lại chưa ý thức được.
- Một cách thực tiễn thì sau giai đoạn tư bản dư dôi tràn ngập, Việt Nam phải qua thời kỳ sút giảm thanh khoản, tiền mặt, và có tốc độ tăng trưởng thấp hơn, nhưng cũng nhân đó mà rà soát lại kinh nghiệm và kiện toàn lại những yếu kém ngay trong cơ cấu của mình. Không may là lãnh đạo chẳng hiểu như vậy nên lại càng bơm tiền kích thích kinh tế để đạt mức tăng trưởng cao, như cố gắng kéo một cỗ xe nát tiến lên cho nhanh hơn, với hậu quả là gây ra khủng hoảng ngày nay. Một biểu hiện của khủng hoảng là lạm phát, nhưng không là vấn đề duy nhất, khó khăn duy nhất. Không những thế, chính nỗ lực giải trừ lạm phát một cách lụp chụp còn gây thêm vấn đề.
Vũ Hoàng: Ông đặt lại bối cảnh của cả hồ sơ kinh tế này trong một viễn ảnh dài và cho rằng lạm phát không là vấn đề duy nhất. Như vậy, kinh tế Việt Nam còn có nhiều vấn đề khác nữa. Thưa ông, đó là những vấn đề gì" Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chuyện đầu tiên là mối nguy từ nhận thức sai lạc của chính lãnh đạo.
- Họ chỉ nhìn thấy một yêu cầu là tăng trưởng cao với cái giá phải trả, hoặc rủi ro có thể gặp, là nạn lạm phát. Bài toán kinh tế không đơn giản chỉ có hai vế là sản xuất và vật giá. Vì sai lầm đó, họ cứ tìm cách giải trừ lạm phát mà vẫn đạt tăng trưởng cao với hậu quả là càng gây hốt hoảng. Và vì chính quyền hốt hoảng nên mới dẫn có loại biện pháp kỳ lạ như ta đang thấy. Nhưng song song, ta còn thấy ra nhiều vấn đề khác trong trung hạn và dài hạn. Ở đây tôi chỉ nói về ngắn hạn:
- Thứ nhất là trong quan hệ trao đổi với bên ngoài, kinh tế Việt Nam bị nhập siêu nặng vì nhập nhiều hơn xuất khẩu do yếu kém trong cơ cấu sản xuất và vì chiến lược phát triển là chỉ biết làm gia công cho thiên hạ. Chuyện khó tin là nhiều người còn nhập nông sản từ xứ khác, như từ châu Phi, đem về bao gói và bán ra ngoài như "Sản phẩm của Việt Nam" mà chính quyền thì cứ coi đó là thành tích xuất khẩu, cho đến khi giá cả đảo chiều là ngày nay, làm nhiều cơ sở bị đọng vốn và không thể thanh toán món nợ bằng đô la. Vấn đề ấy gây sức ép trên tỷ giá đồng bạc và kéo dài quá lâu nên bào mỏng dự trữ ngoại tệ của quốc gia, nay chỉ còn đủ cho gần hai tháng nhập cảng và gây khan hiếm ngoại tệ, chủ yếu là đô la Mỹ.
- Vì vậy mà dù Mỹ kim sụt giá trên toàn cầu, nó vẫn lên giá tại Việt Nam và chính quyền phải phá giá đồng bạc, mà càng phá giá thì càng gây thêm sức ép trên vật giá. Việt Nam rơi vào con xoáy tai hại của hai động lực song hành là ngoại hối và lạm phát, kịch bản rất nguy.
Vũ Hoàng: Chúng tôi nhớ là nhiều chuyên gia cũng cảnh báo rằng việc phá giá đồng bạc có thể là cần thiết, nhưng gây hiệu ứng phụ là làm hàng nhập khẩu lên giá và nếu lạm phát kéo dài thì hai động lực ấy sẽ nuôi dưỡng lẫn nhau và đánh sụt luôn mức sản xuất, điều ấy có đúng không"

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Đấy là giả thuyết đáng ngại nhất trong một hai năm tới. Trong khi đó, và đây là loại vấn đề thứ ba, vì cơ chế kinh tế chính trị gọi là theo "định hướng xã hội chủ nghĩa", Việt Nam vẫn nuôi dưỡng một "khu vực kinh tế chủ lực" là doanh nghiệp nhà nước. Thực tế thì đây là các trung tâm phúc lợi bất chính - hang ổ của tham nhũng - và gây phao phí tài nguyên quốc gia. Chế độ kinh tế chính trị đó dẫn tới lạm dụng tư bản, thậm chí tẩu tán tư bản và gây thêm khó khăn về ngoại hối vì nhiều đại gia đã vét đô la chạy ra ngoài mà dân chúng không biết. Và nó càng gây bội chi ngân sách quá cao vì các chương trình đầu tư đầy hoang phí của khu vực công cho doanh nghiệp nhà nước. Kết quả là công quỹ hết tiền và mất luôn khả năng can thiệp vào thị trường để trợ giá hoặc cứu giúp dân nghèo đang bị điêu đứng vì vật giá gia tăng.
- Sau cùng mà không là duy nhất, khi tư bản còn dư dôi đổ vào, nó chảy từ đầu tư qua đầu cơ, chủ yếu vào hai khu vực chứng khoán và bất động sản, là nơi tung hoành của một thiểu số ở thành thị với bong bóng ảo và hình ảnh của phồn vinh giả tạo với một số đại gia vẫn mua xắm xa xỉ phẩm đắt tiền. Họ coi bất công xã hội là không có và dân chủ là không cần! Khi vật giá hoành hành thì người nghèo khổ nhất và thành phần có đồng lương cố định bắt đầu bị thiệt hại nhất, chứ thiểu số có tiền ở thành phố thì vẫn bình chân như vại và nghĩ rằng họ khôn ngoan hơn cả.
- Nhưng chuyện ấy không còn nữa vì đám người gọi là "nhà giàu" này cũng bắt đầu hốt hoảng và càng gây thêm hốt hoảng cho thị trường vì những tính toán luồn lách của họ để tìm ra các kênh đầu tư béo bở khác, kể cả tẩu tán và gọi là đầu tư ra ngoài. Hậu quả sau này là nhiều ngân hàng sẽ bị suy sụp và mất nợ, thậm chí vỡ nợ. Do đó vấn đề không chỉ là nạn lạm phát mà thôi!
Vũ Hoàng: Chúng ta trở lại việc giải trừ lạm phát. Ông giải thích thế nào về các biện pháp này"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi phải trình bày lại bối cảnh để ta hiểu ra vì sao giải trừ lạm phát chỉ là một phần của cả một kế hoạch chung, là điều mà nhiều người chưa thấy!
- Ta còn nhớ là ngay sau Tết Nguyên đán, giới chức Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát biểu rằng sau khi dân chúng ăn một cái Tết lớn nhất lịch sử thì ngân hàng phải thu hồi lại nguồn tiền đã bơm vào kinh tế! Nếu nhớ lại thì mình hiểu ra là đầu năm dương lịch 2011, Việt Nam có Đại hội đảng của Khoá 11 và do yêu cầu chính trị, Ngân hàng Trung ương vẫn phải bơm tiền cho dân ăn Tết mà bất kể tới hậu quả lạm phát! Sau đó là các quyết định lụp chụp, không có phối hợp, thiếu đồng bộ và thậm chí mâu thuẫn nên mới gây ra hốt hoảng.
- Trước hết là việc Ngân hàng Trung ương phá giá đồng bạc, lần thứ tư trong vòng 14 tháng, ban hành ngay sau Tết Nguyên đán vào ngày 11 tháng Hai mà chẳng có giải thích gì thêm về yêu cầu giảm trừ khồi tiền tệ lưu hành để ngăn ngừa lạm phát sẽ làm cho dân nghèo bị khổ nhất. Thiếu "Cách mạng Thông tin" là như vậy! Sau đó gần một tuần, ngày 17 tháng Hai mới là các biện pháp xiết chặt tín dụng ngân hàng, nhồi theo là việc nâng lãi suất vào ngày 22 tháng Hai và lời thông báo một tuần sau, mùng một tháng Ba, là các ngân hàng sẽ không được tài trợ cho loại dự án phi sản xuất, nếu không là sẽ phải nâng mức dự trữ pháp định gấp đôi. Ở giữa một loạt biện pháp dồn dập trong vòng ba tuần là Nghị quyết 11 được Chính phủ ban hành hôm 24 tháng Hai với sáu gói chính sách đồng loạt mà Ngân hàng Nhà nước, bộ Tài chính, bộ Công thương nghiệp, bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng bộ Thông tin phải áp dụng và giải thích! Trong đó có quyết định hợp lý mà không hợp thời là chấm dứt trợ giá xăng dầu và gây thêm đảo điên cho thị trường. Người dân và thị trường phải kết luận - mà không sai - là Chính quyền hốt hoảng đối phó chứ không suy nghĩ chín chắn về nguyên nhân và hậu quả của từng loại vấn đề mà có một chiến lược tổng thể về quản lý vĩ mô.
Vũ Hoàng: Và thưa ông, lồng trong đó là quyết định về việc kinh doanh vàng miếng và đô la, với lý do là giải trừ lạm phát. Có phải vì vậy mà người dân mới hoang mang và ngờ vực không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Người dân ngờ vực là đúng. Việc dân chúng sợ đồng bạc mất giá mà tìm cách tồn trữ tài sản dưới dạng vàng và đô la chỉ là hậu quả chính đáng chứ không là nguyên nhân của lạm phát. Khi ra lệnh cấm đoán như vậy, chính quyền chỉ chữa bệnh ở ngọn, ở triệu chứng, chứ không giải quyết ở gốc. Vì vậy, không ai tin là biện pháp này sẽ công hiệu để ổn định vật giá. Nhưng thực tế thì còn nguy hơn vậy vì người dân còn kết luận rằng đây chỉ là biện pháp ngầm giúp các đại gia hay doanh nghiệp nhà nước mà thôi vì thành phần này vẫn thừa khả năng luồn lách luật lệ. Tôi xin được giải thích thêm chuyện này, rằng yếu tố quan trọng trong một nền kinh tế thị trường là quyền chọn lựa.
- Trong mọi hoàn cảnh, mọi tác nhân kinh tế từ giàu có đến nghèo khổ nhất đều tự nhiên và tất yếu chọn lựa giải pháp nào có lợi nhất hoặc ít hại nhất. Trong sự chọn lựa đó có cách sản xuất cái gì thì tối ưu về doanh lợi và cách tồn trữ tài sản hay hàng hóa nào an toàn nhất. Việc kiểm soát hay cấm đoán vẫn không thể ngăn chặn được sự chọn lựa rất bình thường và phải nói là chính đáng này. Thí dụ như nếu người dân tin vào trị giá của đồng nội tệ, đồng bạc Việt Nam, thì chẳng cấm họ cũng đổi đô la là tiền Việt và tìm lãi suất cao hơn của ngân hàng tại Việt Nam!
- Khi ban hành chính sách kinh tế, thì chính quyền phải hiểu ra quy luật đó mà thi hành đồng bộ với giải thích rõ ràng và thống nhất. Chỉ như vậy thì mới giúp mọi người có cơ sở cân nhắc lợi hại của từng chọn lựa mà không gây thêm vấn đề. Vì chỉ nhìn thấy một góc của vấn đề và lại có quá nhiều quyền lực trong tay mà khỏi phải giải trình hay bị trách nhiệm, chính quyền Việt Nam áp dụng giải pháp hành chính dễ dãi mà nguy hiểm là cấm đoán. Việc cấm đoán ấy không hạn chế được khả năng xoay trở của những người có quan hệ với chế độ và gây thêm bất công. Nó còn làm cho quy luật thị trường thêm lệch lạc, mất luôn những tín hiệu cần thiết về lời lỗ và nếu nhất thời có ổn định được tỷ giá của đồng bạc thì vẫn không ngăn ngừa được lạm phát. Đó là ta chưa nói đến những hiệu ứng ngoại nhập từ thị trường thế giới nay mai sẽ còn dội vào Việt Nam.
Vũ Hoàng: Xin trân trọng cảm tạ ông Nghĩa và xin hẹn ông một kỳ tới, chúng ta sẽ trao đổi về những gì có thể xảy ra sau này.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.