Hôm nay,  

CSVN Ngả Theo TQ Sau Khi Liên Sô Tan Rã 20 Năm Trước

22/12/201100:00:00(Xem: 10503)
CSVN Ngả Theo TQ Sau Khi Liên Sô Tan Rã 20 Năm Trước

gs_nguyen_manh_hung-george_mason_university-large-contentGiáo sư Nguyễn Mạnh Hùng

Phạm Trần
LTS: Ngày 31 Tháng 12 năm 1991, Liên bang 15 nước Sô-Viết sau 69 thành lập (1922) , đã chính thức tan rã (Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgystan, Latvia, Lithuania, Moldova, Russian Federation, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine and Uzbekistan).
Nhưng tại sao Đế quốc Cộng sản đã sụp đổ chỉ sau 6 năm Tổng Bí thư đảng Cộng sàn liên bang Soviet, Mikhail Gorbachev, lên cầm quyền (1985-1991) để kết thúc vĩnh viễn hiểm họa chiến tranh nguyên tử với Thế giới Tự do và để lại Hoa Kỳ là cường quyết duy nhất còn lại trên qủa Địa cầu ?
Để trả lời cho phần nào câu hỏi này cũng như sự tan rã của Thế giới Cộng sản đã ảnh hưởng đến Việt Nam ra sao và tại sao giấc mơ thành lập một “Thế giới Cộng sản” thứ hai của Việt Nam đã tiêu tan Trung Cộng, Cuba, Bắc Hàn và Ai Lao đã không thể kết thành một khối?
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia Chính trị và Ngoại giao Quốc tế tại Đại học George Mason, Fairfax, Virginia đã trả lời những thắc mắc của Nhà báo Phạm Trần trong Cuộc phỏng vấn dưới đây. Cuộc Phỏng vấn này cũng được truyền đi trên Hệ thống đài SBTN và Youtube ngày 23/12/2011.
*
H: Thưa Giáo sư, 20 năm trướcc đây vào lúc 7:35 tối ngày 25 tháng 12 năm 1991, Chủ tịch Liên Bang Sô Viết Mikhail Gorbachev tuyên bố từ chức, cờ Liên bang ở Điện Cẩm Linh được thay bằng Cờ nước Nga và ngày 31 tháng 12 năm đó, Liên bang 15 nước trong khối Sô-Viết chính thức tan rã.
Thời gian 7 ngày ngắn ngủi vào lúc đó ông ở đâu và cảm tưởng của ông khi ấy như thế nào ?
Đ: Trong thời gian đó tôi đang ở đây --Fairfax, Virginia. Lúc đó cũng là Winter break, nghĩa là giai đoạn nghỉ giữa khóa học mùa Thu và mùa Xuân. Tối hôm 25/12/1991 tôi xem truyền hình Tổng Thống George Herbert Walker Bush, tức là ông Bush bố, đọc thông điệp Giáng Sinh, tuyên bố chiến tranh lạnh đã chấm dứt.
Cảm nghĩ đầu tiên của tôi là hiểm họa chiến tranh tận diệt không còn nữa và loài người trong đó có cả tôi không còn phải sống trong nền hòa bình mỏng manh đặt trên thế quân bình cũa vũ khí nguyên tử.
Nhưng sự kiên gây ấn tượng mạnh nhất đối với tôi không phải là năm 1991 mà là khi bức tường Bá Linh xụp đổ năm 1989, lính Đông Đức bước qua khoảng tường đổ, bắt tay với lính Tây Đức, và người bên Đông Bá Linh ùa ra sang Tây Bá Linh trước sự chào đón vui mừng của người dân Tây Đức.
NGUYÊN NHÂN TAN RÃ
H: Thưa ông, nguyên nhân nào trong số này đã làm cho Liên bang Sô Viết tan rã :
A) Chính sách Đổi mới táo bạo (Perestroika) đưa ra năm 1986 của ông Gorbachev khi ấy là Tổng Bí thư đảng.
B) Các cuộc nổi dậy tuyên bố độc lập tách rời khỏi khối Liên bang của các nước chư hầu Đông Âu từ năm 1987.
C) Hay là Cuộc đảo chính bất thành chống “dân chủ hóa chế độ” của ông Gorbachev vào tháng 8/1991 do Phó Chủ tịch Liên bang, Thủ tướng Liên bang, Bộ trường Quốc phòng và người cầm đầu cơ quan Tình báo KGB và một số Tướng lãnh trong quân đội muốn khôi phục chế độ độc tài Liên bang Sô Viết ?
Đ: Việc xụp đổ của thế giới cộng sản và Liên Bang Sô Viết lúc ấy không ai tiên đoán được. Chính CIA cũng bị chỉ trích là không tiên đoán được việc ấy. Bây giờ có khoảng cách thời gian để nhìn lại thì có lẽ sự xụp đố ấy là do tổng hợp của cả ba yếu tố, mỗi yếu tố có mực độ quan trọng khác nhau.
Chính sách tái cấu trúc kinh tế và cởi mở chính trị của ông Gorbachev mở đầu cho các thay đổi ở Liên Bang Xô Viết và phong trào đòi dân chủ và độc lập tại các quốc gia Đông Âu.
Chính ông Gorbachev đã ra lệnh quân đội Nga không được can thiệp để giúp chính quyền dẹp biểu tình, bắt đầu là ở Ba Lan, mà khi sang thăm Tây Đức còn tuyên bố ủng hộ quyền dân tộc tự quyết của người dân Đông Đức.
Chính ông Gorbachev đã khởi đầu thảo luận với các cộng hòa Xô Viết để thành lập một liên bang lỏng lẻo hơn trong đó mỗi cộng hòa sẽ có nhiều quyền hạn. Nhưng khi nhóm quân đội- công an đảo chính rồi giam giữ ông Gorbachev, ông Yeltsin, Tổng Thống Nga và cũng là đối thủ của ông Gorbachev, đứng ra điều đình với một số Cộng hòa Xô Viết lập ra một Khu Thịnh Vương chung của các quôc gia độc lập (Commonwealth of Independent States) để thay thế cho Liên Bang Xô Viêt cũ.
Vì ông Gorbachev bị bắt nên thay vì có một Liên Bang Xô Viết cải tổ thì nó bị hoàn toàn thay thế bởi một định chế hoàn toàn mới. Không có Liên Bang Xô Viết nữa thì cũng không có chức vụ Chủ tịch Liên Bang Xô Viết, vì thế ông Gorbachev phải từ chức.
Như vậy, ông Gorbachev khởi đầu tiến trình cải cách. Cuộc đảo chính bất thành đẩy mạnh tiến trình tan vỡ của Liên Bang Xô Viết và Đảng Cộng Sản Xô Viết.
VAI TRÒ CỦA GIÁO HOÀNG VÀ MỸ
H: Đức Giáo hoàng John Paul Đệ Nhị và Tổng thống Roanld Reagan có đóng vai trò gì trong sự sụp đổ của Liên Bang Soviet không ?
Đ: Đức Giáo Hoàng John Paul Đệ Nhị, tức là cựu Hồng Y Vojtyla nổi tiếng vì cuộc viếng thăm quê hương Ba Lan năm 1979 trong lúc có phong trào nghiệp đoàn tranh đấu và khuyên người Ba Lan “đừng sợ hãi.” TT Reagan nổi tiếng vì lời tuyên bố “Ông Gorbachev, ông hãy phá đổ bức tường ấy đi” năm 1987, hai năm trước khi bức tường ấy bị đổ.
Các cuộc biểu tình chống chính phủ ở Ba Lan đã bắt đầu từ năm 1970, chín năm trước cuộc viếng thăm của Giáo Hoàng John Paul Đệ Nhị. Năm 1976, sau khi cuộc biểu tình của công nhân bị đàn áp, một số trí thức Ba Lan đứng ra lập Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động rồi công bố Hiến Chương Quyền của Thợ Thuyền. Ba năm sau đó, Giáo Hoàng John Paul mới thăm Ba Lan và khuyên người dân “đừng sợ hãi.” Lời khuyên này gây cảm hứng và khuyến khích phong trào tranh đấu. Năm 1980 cuộc đình công ở Gdansk dẫn đến việc thành lập công đoàn độc lập Solidarity dưới sự lãnh đạo của Walesa. Sau nhiều đợt biểu tình, đàn áp, và bắt bớ, cuối cùng năm 1989 chính quyền Ba Lan phải nhượng bộ và tổ chức bầu cử quốc hội. Năm 1990, Walesa thắng cử và trở thành Tổng Thống Ba Lan, chấm dứt chế độ cộng sản. Tiến trình này cho thấy là việc tranh đấu đã xẩy ra trước cuộc viếng thăm của Giáo Hoàng. Giáo Hoàng không phải là người khởi động cuộc tranh đấu và những gì xẩy ra trong chính trị trên thế giới (áp lực của chính quyền Reagan và chính sách cải tổ của Gorbachev) và trong nội bộ của Ba Lan (cuộc tranh đấu kiên cường của công đoàn độc lập Solidarity và sự nhượng bộ của chính quyền Jaruzelski) mới là nguyên chính đem đến sự xụp đổ của chính quyền Cộng Sản.

Còn ông Reagan, chính sách “dùng sức mạnh để tạo hòa bình" (peace through strength) và tấn công dồn dập (full court press) của Mỹ qua chương trình bỏ ra 1.7 tỷ Mỹ kim để tái võ trang và thiết lập hệ thống hỏa tiễn phòng thủ chiến lược (strategic defense initiative) đã dồn ông Gorbachev vào thế thụ động, phải hòa hoãn và nhân nhượng Mỹ để tập trung vào việc cải cách nội bộ. Nhưng nếu lúc ấy Nga có một nhà lãnh đạo nào khác, thí dụ như những người suy nghĩ kiểu cũ và hành động khác với Gorbachev, thì có thể thế giới còn phải qua một giai đoạn căng thẳng dưới đe dọa của chiến tranh, chứ không chuyển đổi một cách hòa bình như vậy.
Cách đây hai năm, trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Figaro, ông Gorbachev tiết lộ rằng ngay từ năm 1985, trong đám tang của Chernenko, người tiền nhiệm của ông, ông đã bảo với các lãnh tụ Đông Ấu rằng Nga Xô sẽ không can thiệp quân sự để bảo vệ họ như trường hợp Hung Gia Lợi năm 1956 và Tiệp Khắc năm 1968 nữa. Ông lý luận rằng với 2 triệu quân sĩ võ trang đến tận răng ghìm nhau ở hai bên chiến tuyến, sự can thiệp của Nga có thể dẫn đến thế chiến. Kissinger cũng đồng ý với lập luận này khi ông khuyên chính quyền Bush thương lượng kín với Gorbachev, vì nếu Nga can thiệp ở Đông Đức thì Tây Đức sẽ phản ứng và sẽ gây ra một tình trạng cực kỳ nguy hiểm khó mà tiên đoán được hậu quả. Nói tóm lại, chính sách của Gorbachev chứ không phải của Reagan đã khiến cho chiến tranh được kết thúc một cách hòa bình.
H: Còn vai trò của Tổng thống Geroge H. W. Bush?
Đ: Khi ông Bush là Phó Tổng Thống của ông Reagan, ông rất lo ngại chính sách đối với Nga Xô thay đổi từ một cực này đến cực khác, từ đối đầu gay gắt trong nhiệm kỳ đầu đến thân thiện và tín cẩn trong nhiệm kỳ hai.
Khi lên làm Tổng Thống, ông giữ thái độ thận trọng, muốn lùi lại một bước, trở lại chính sách hòa hoãn (détente) thời Nixon để dò xét ý định thực sự của ông Gorbachev. Ông hứa sẽ hợp tác tích cực với Gorbachev, bỏ chính sách vây chặn (containment), viện trợ tài chính và giúp Nga Xô hội nhập với phía Tây phương với ba điều kiện. Th ứ nhất, Nga Xô phải tôn trọng quyền tự quyết của các nước Đông Âu. Thư hai, Nga Xô phải tiếp tục cải tổ kinh tế và chính trị. Thứ ba, Nga Xô phải giúp giải quyết các xung đột địa phương.
Sau khi Nga Xô rút quân khỏi Afghanistan và không can thiệp vào Ba Lan khi chế độ cộng sản bị thay thế, ông Bush mới tin thực tâm của ông Gorbachev, và sau đó Nga-Mỹ mới đẩy mạnh hợp tác đưa đến sự tham dự của Nga Xô vào khối các nước giàu G-8, giải quyết các tranh chấp từ Angola đến Nicaragua. Chính sách của Bush là tiếp tục áp lực nhưng tránh làm mất mặt Gorbachev. Chính sách cương quyết này cuối cùng đã đem lại sự thống nhất của Đức mà vẫn giử Đức trong khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) chứ không phải chịu quy chế trung lập như Áo năm 1955.
Nếu ông Reagan là người dùng chính sách cứng rắn đ ể tạo ra áp lực với Nga Xô, và ông Gorbachev đối phó lại bằng tiến trình cải tổ, thì có thể coi ông Bush như bà mụ cùng với ông Gorbachev lèo lái việc chấm dứt chiến tranh lạnh một cách hòa bình.
THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM VỠ MỘNG
H: Sự sụp đổ của Liên bang Soviet đã ảnh hưởng đến tình hình Thế giới như thế nào, ngoài sự kết thúc “Cuộc chiến tranh lạnh” với Hoa Kỳ và Tây phương ?
Đ: Sự xụp đổ của Liên bang Xô Viết chấm dứt thế lưỡng cực và đưa Hoa Kỳ vào thế độc tôn trên thế giới, đồng thời tạo cơ hội cho các quốc gia Đông Âu thoát vòng kiềm tỏa của Nga Xô và hội nhập với Tây Âu, biến khu vực này thành một vùng hòa bình, hợp tác, thoát hiểm họa chiến tranh nguyên tử. Mặt khác, nó cũng khiến cho những xung đột chủng tộc và tôn giáo bộc phát và tạo ra tình trạng bất ổn cố và nạn diệt chủng ở vùng này trong nhiều năm.
H: Biến cố “Thế giới Cộng sản tan rã” năm 1991 đã ảnh hưởng đến Việt Nam như thế nào ?
Đ: “Thế giới Cộng Sản tan rã” bắt đầu với tiến trình cải tổ của Gorbachev. Khi Gorbachev cải tổ ở Nga Xô, họ cũng khuyến cáo các lãnh đạo trong khối cộng sản cải tổ, trong đó có cả Việt Nam. Chính vì thế mới có đổi mới kinh tế và cởi trói văn học năm 1986.
Khi các chế độ cộng sản Đông Âu tan rã năm 1989 rồi sau đó là Liên Bang Xô Viết cùng với biến cố Thiên An Môn ở Trung Quốc khiến các nhà lãnh đạo Việt Nam ngưng tiến trình cải tổ chính trị để bảo vệ chế độ. Bất đồng ý kiến về đường lối phải đi gây ra mâu thuẫn trong nội bộ đảng suốt từ Đại Hội Đảng khóa 6 tới Đại Hội Đảng khóa 7. Năm 1991, Đại Hội 7 của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thay thế mô hình cải tổ Nga Xô bằng mô hình cải tổ Trung Quốc. Và kết quả là ngày nay chế độ cộng sản vẫn tồn tại ở Việt Nam.
H: Tại sao các nước Cộng sản còn lại gồm Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba đã không thể kết hợp thành một khối “Thế Giới Cộng sản” nhỏ, sau khi Liên bang Soviet tan rã ?
Đ: Bắc Hàn và Cuba là những chế độ cộng sản thất bại, chẳng đem lại vinh dự gì cho mô hình cộng sản. Chỉ còn hai nước cộng sản đáng kể và gần nhau là Trung Quốc và Việt Nam. Chính các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc ấy đã đề nghị lập một liên minh cộng sản với Trung Quốc để chống diễn biến hòa bình, nhưng Trung Quốc không chịu, nói rằng hai nước là đồng chí chứ không là đồng minh. Trung Quốc lúc bấy giờ còn chịu ảnh hưởng của Đặng Tiểu Bình mà họ Đặng lại rất ghét Việt Nam. Hơn nữa, lúc đó Trung Quốc đang lo đối đầu với chế tài của phe Tây phương sau vụ Thiên An Môn nên nghĩ răng họ không có khả năng bảo vệ VN nữa. Trung Quốc năm 1990 đang có khó khăn nội bộ và bị cô lập, họ không có khả năng và tham vọng của Liên Xô năm 1945.-/-
Phạm Trần
(12/2011)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.