Hôm nay,  

Bùi Tín Viết Riêng Cho VOA, Thứ Ba, 10 Tháng 4 Năm 2012:Nhân ngày 30-4: Một dấu chấm trên chữ i

12/04/201200:00:00(Xem: 15961)
Ngày 30-4 lại sắp đến. Ba mươi bẩy năm đã trôi qua. Nhanh thật.

Ngày quốc hận, ngày mất nước, ngày gãy súng, ngày bị đồng minh phản bội, đối với không ít đồng bào ta.

Ngày đại thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc, ngày hòa bình trở lại, ngày lịch sử, đối với những người lãnh đạo đảng cộng sản và bộ máy tuyên truyền của họ, cũng như những người còn nhẹ dạ quen nghe theo họ.

Tôi không có cảm giác hay nhận thức nào như trên. Tôi tự thấy trong hoàn cảnh đặc biệt. Xin đừng ai bắt tôi phải theo phía này hay phía kia. Tôi cũng không ba phải. Mỗi người có một hoàn cảnh riêng, một quá trình riêng, một số phận riêng, không ai giống ai.

Cái đẹp nhất của nhân loại là hàng tỷ, tỷ con người, cấu tạo cùng một kiểu "người" nhưng không có lấy 2 người giống hệt như nhau, nghĩ hệt như nhau. Giống hệt nhau thì chán chết!

Cứ đến ngày 30-4, suốt 37 năm nay, nhiều nhà báo Việt Nam trong và ngoài nước, một số nhà báo Pháp, Anh, Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Phần Lan, Canada… lại hỏi tôi, phỏng vấn tôi về vấn đề này, năm nào tôi cũng trả lời rõ ràng, ngay thật.

Từ đó đến nay, đông đảo đồng bào quan tâm đến thời sự đất nước hiểu tôi rõ hơn, đầy đủ hơn, tôi rất mừng và biết ơn. Tuy vậy năm nay tôi thấy vẫn cần "đặt một dấu chấm trên chữ i".

Đó là bởi vì ngày 30-4-1975, do đưa đẩy của hoàn cảnh lịch sử, do nghề nghiệp của mình, tôi được làm một chứng nhân tại chỗ của thời điểm kết thúc chiến tranh ở một địa điểm then chốt, Sài Gòn, thủ đô của chế đô Việt Nam Cộng hòa.

Đối với tôi, ngày 30-4-1975, không hẳn là ngày vui, cũng không hẳn là ngày buồn, mà là một ngày trộn lẫn vui và buồn, cảm nhận ngày càng sâu đậm nhất trong tôi là một niềm cay đắng dai dẳng cho thân phận của dân tộc mình, cho thân phận cá nhân mình.

Không thể không vui khi cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn chấm dứt, không thể không vui khi sự chia cắt độc ác do 2 ông anh nham hiểm một thời của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa áp đặt hồi 1954 cho đất nước đã được xóa bỏ, mở ra triển vọng hòa hợp dân tộc.

bui_tin_dinhdoclap-30thang4_medium

Tổng Thống Dương Văn Minh ngày 30-4-1975 ở Dinh Độc Lập. Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu (thứ 2 từ trái) và nhà báo Bùi Tín (nón cối).
Cay đắng cứ gặm nhấm dần niềm vui chưa trọn, khi nhận ra rằng từ "giải phóng " sao mà trớ trêu, phải nói thẳng đây là sự "chiếm đóng ", bỏ tù hàng trăm nghìn sỹ quan đồng bào mình, đày ải và hạ nhục trong hàng trăm nhà tù mang danh trại cải tạo, gây nên thảm cảnh "thuyền nhân" kinh hoàng trên biển cả, với hàng vạn người già trẻ lớn bé đồng bào ta chết chìm trong lòng đại dương…Trên đời, trong lịch sử, có bao giờ, ở đâu có cảnh ai oán trầm luân đến vậy?

Có bạn blogger trong nước hỏi tôi, vậy thì niềm cay đắng xuất hiện trong tôi từ thời điểm nào? Tôi cố nhớ lại, và nhận ra ngay từ dịp Tết Mậu Thân đầu năm 1968, khi duyệt các bản trình bày báo Quân đội Nhân dân hàng ngày, tôi đã cảm thấy bị "sốc", khi thủ trưởng Tổng cục chính trị chỉ thị cho tôi là khi đăng tin chiến sự miền Nam, nếu có các trận thắng diệt gọn "1 cứ điểm do 2 tiểu đoàn, 1 chiến đoàn hay chiếm được 1 quận lỵ, hoặc là diệt trên 1 nghìn địch trở lên" thì phải in tít đậm màu đỏ, kèm theo bản đồ hay sơ đồ, có bài bình quân sự đi theo. Tôi từng được biết tuy còn lờ mờ là một số anh họ, em họ, cháu họ tôi ở Huế và Sài Gòn đang là sỹ quan của miền Nam. Tôi phân vân về chỉ thị trên đây, sao lại mừng, lại vui được, khi quân Việt hăng say diệt quân Việt cùng chung máu mủ họ hàng, không hề thù địch nhau, chỉ do hoàn cảnh mà phải ở tình trạng gay gắt trớ trêu. Cái cảm giác cay đắng này cứ lớn lên, lớn lên mãi thành chất men bất đồng, đối lập, đối kháng về sau. Khi lời hứa hòa giải bị quên.

Có bạn trong nước hỏi, gần như trách móc tôi, là sao chậm giác ngộ thế? đến tận năm 1990 mới rời bỏ chế độ và quyền lực. Tôi nghĩ sớm hay chậm chỉ là tương đối. Tôi ôm niềm cay đắng, không thuần phục cường quyền trong 15 năm, rồi điều gì phải đến đã đến, như một cuộc đổ vỡ, ly hôn không thể tránh khỏi, khi tôi có dịp chính thức sang Pháp, theo lời mời đích danh của Ban Chấp hành Trung ương đảng CS Pháp, do tôi từng hướng dẫn đoàn đảng CS Pháp đi thăm Điện Biên Phủ, vịnh Hạ Long và rừng Cúc Phương 2 năm trước. Tôi nghĩ kỹ, cho rằng đứng ngoài tìm cách nói về có khi hơn là nói từ trong nước, sẽ bị bịt mồm.

bui_tin_voituongnamlong_medium

Nhà báo Bùi Tín và Tướng CSVB Nam Long trưa 30-4-1975 ở Dinh Độc Lập.
Điều tôi tự an ủi là dù sao so với những đảng viên bỏ đảng, trả lại thẻ đảng sau này, tôi vẫn còn là người sớm hơn. Anh Nguyễn Hộ, anh Trần Độ, anh Hoàng Minh Chính, anh Lê Hồng Hà, anh Bùi Minh Quốc, anh Phạm Đình Trọng, anh Đỗ Xuân Thọ… đã trước sau vĩnh biệt đảng. Nay phong trào "nhạt đảng", "chán đảng", bỏ sinh hoạt đảng, quay lưng lại với đảng, trả thẻ đảng, nhẹ nhàng, còn tự cho là từ bỏ một gánh nặng, một "của nợ", đang lan rộng.

Một blogger trong nước phỏng đoán rằng nếu như sắp đến có Luật về lập hội, nếu phỏng như xuất hiện một Tập hợp dân chủ - xã hội, hay một Mặt trận Công dân Việt Nam, có nhóm lãnh đạo trong sạch, có tâm và có tầm, vượt xa Bộ Chính trị và Trung ương đảng CS thời suy thoái và đổ đốn hiện nay, thì lập tức sẽ có 60 % đảng viên CS hân hoan tự nguyện chuyển sang tổ chức mới. Đó sẽ là đảng của đa số, đảng của dân tộc, của tuổi trẻ, của thời đại mới.

Cũng cần nói rõ trong 15 năm, tôi đã nhiều lần cố góp ý, đề đạt chính kiến với lãnh đạo, như gửi hẳn một thư kiến nghị cho ông Trường Chinh, nhưng không có hồi âm.

Tôi còn nhớ một đoạn như sau: "Hiện ta có 1,3 triệu quân tại ngũ, trong khi Ấn Độ có dân số gấp 6 ta mà quân số chỉ bằng của ta, Inđônesia có dân số gấp 3 ta mà quân số chưa đến 1 triệu, cho thấy việc giảm quân là cấp bách ra sao, sau khi ta đã rút quân khỏi Campuchia."

Lúc ấy là năm 1987, sau khi tôi là nhà báo đi trong đoàn ông Lê Duẩn thăm Ấn Độ và sau đó trong đoàn tướng Văn Tiến Dũng thăm Indonesia. Tôi được nghe chính bà Gandhi trao đổi với ông Lê Duẩn về xung đột biên giới Ấn - Pakistan cùng thực trạng quân đội Ấn, cũng như nghe tướng Suharto trao đổi rất cởi mở về tình hình quân đội Indonesia. Họ đều cho rằng vấn đề số lượng quân tại ngũ là rất quan trọng, theo một tỷ lệ hợp lý so với số dân và nền kinh tế, nếu không sẽ thành gánh nặng nguy hiểm cho xã hội. Các tỷ lệ trên làm tôi giật mình khi nghĩ đến tỷ lệ quá ư phi lý, nguy hiểm ở nước ta, không ai chú ý, nhưng cứ ám ảnh tôi mãi cho đến nay.

Cũng có bạn trẻ ở Bắc Cali, Hoa Kỳ, hỏi tôi chuyện tôi "huênh hoang đe dọa tướng Dương Văn Minh và đồng sự rồi đòi họ đầu hàng, được kể trên báo chí hải ngoại, thực tế là ra sao?".

Xin trả lời bạn: Tôi đã đọc nhiều bài, tả lại cứ như thật. Nào là: Bùi Tín phách lác, xông vào phòng, rút súng ngắn bắn lên trần, rồi bắt tất cả dơ 2 tay đầu hàng không điều kiện. Thật ra sau khi Trung tá Hân, trưởng phòng bảo vệ Quân đoàn 4, báo trước: "Một sỹ quan cao cấp sắp gặp các ông ", tôi bước vào phòng, còn ngăn lại một chiến sỹ cầm AK dừng lại ở ngoài cửa. Tướng Dương Văn Minh, ông Vũ Văn Mẫu, ông Nguyễn Văn Hảo, tất cả là 37 người, đứng dậy, tướng Minh nói: "Chúng tôi chờ quý ông từ sáng đặng chuyển giao chính quyền", tôi liền đáp ngay: "Chính quyền các ông đã sụp đổ từ sáng nay rồi", tôi biết ông Minh đã tuyên bố đầu hàng trước đó rồi, không ai giao cho tôi việc tiếp nhận chính quyền, tôi nói thêm: "Các ông không thể chuyển giao cái không còn ở trong tay". Thấy họ đều buồn, tôi liền nói, như một lời an ủi: "Từ nay chiến tranh đã chấm dứt, hòa bình đã trở lại, toàn dân tộc ta đã thắng, chỉ có người Mỹ là thua". Tôi thấy ông Mẫu mỉm cười. Sau đó tôi nói chuyện riêng, nhẹ nhàng, có thể gọi là thân mật tự nhiên với ông Minh, ông Mẫu, ông Hảo… Tôi hỏi ông Mẫu về phong trào Phật giáo, về chuyện vui ông từng cắt tóc ngắn, về chuyện giảng dạy ở trường Luật, tôi hỏi ông Minh về sưu tập hoa phong lan, về chuyện chơi tennis của ông. Cả cảnh này được tổ quay phim thời sự của quân Giải phóng do anh Sanh ghi lại, và sau đó mươi ngày chiếu lại cho các tướng Trần Văn Trà, chủ tịch Ủy ban Quân quản, và tướng Văn Tiến Dũng xem. Sau buổi chiếu, anh Trà bắt tay tổ quay phim và tôi, còn nói: Nhà báo nói hay quá! Sau này tướng Võ Nguyên Giáp cũng kể cho nhà báo Hoa Kỳ Stanley Karnow về chiến dịch cuối cùng, và giới thiệu về tôi: Bùi Tín là nhà báo, cũng là sỹ quan cao cấp có mặt ở Dinh Độc Lập ngày 30-4-1975.

Có mấy điểm gây hiểu lầm tôi đã nhiều lần cải chính. Xin một lần nữa đặt dấu chấm trên chữ i cho sòng phẳng. Tôi từng kể là tôi đi cùng "đơn vị xe tăng đầu tiên" chứ không phải đi trên "chiếc xe tăng đầu tiên". Hai điều này khác hẳn nhau. Do có nhà báo Pháp hiểu và ghi sai.

Tôi cũng không bao giờ nói rằng tôi là sỹ quan cao cấp đầu tiên và duy nhất đến Dinh Độc Lập. Tôi được biết trước tôi hơn 1 giờ, Thượng tá Nguyễn Công Trang, phó chính ủy Quân đoàn II, đã đến cùng đơn vị tiền trạm. Nhưng không hiểu sao, anh Trang không vào gặp tướng Minh và đồng sự. Đến chiều gần tối tôi mới gặp tướng Nam Long, lúc ấy là phái viên Bộ Tổng tham mưu đi theo sát Quân đoàn II, anh Nam Long rủ tôi chụp chung một pô kỷ niệm. Tôi kể chuyện gặp tướng Dương Văn Minh và hỏi anh rằng anh có định gặp họ không. Anh nói trên không giao nhiệm vụ này.

Vậy khi trên báo trong nước và nước ngoài có viết rằng Bùi Tín là sỹ quan cao cấp duy nhất gặp đại diện chính quyền Sài gòn ngày 30-4-2012 ở tại Dinh Độc Lập là một sự thật. Điều này tôi không bao giờ lấy đó làm một điều gì ghê gớm để khoe khoang. Khoác lác hay phách lác không phải lối sống, phong cách xử sự của tôi. Tôi chỉ là một nhân chứng may mắn. Những sỹ quan khác gặp tướng Minh, nhận đầu hàng hay chứng kiến sự kiện này là Trung tá Bùi Văn Tùng, Trung tá Nguyễn Văn Hân, Đại úy Phạm Xuân Thệ… Theo điều lệnh quân đội, họ thuộc bậc trung cấp, ở dưới cấp thượng tá và đại tá một bậc, chứ không phải 1, 2 cấp mà thôi.

Cao cấp so với bậc trung cấp có mức lương khác hẳn, bếp ăn khác (gọi là tiểu táo), giường nằm khác, quân phục và lễ phục chất lượng khác, lớp học, trưòng học khác, tài liệu đọc khác.

Công bằng mà nói, người được ủy quyền hợp pháp của Mặt trận Dân tộc Giải phóng là ông Sáu Hoàng, tên thật là Cao Đăng Chiếm, chức vụ là Thứ trưởng Bộ công an ở Hà Nội, vào Nam "phụ trách an ninh miền" thay cho anh Nguyễn Tài, con nhà văn Nguyễn Công Hoan, bị bắt sau Tết Mậu Thân. Anh Sáu Hoàng đi từ Dầu Tiếng xuống, có giấy ủy nhiệm của Chủ tịch Mặt trận Nguyễn Hữu Thọ và Thủ tướng Chính phủ lâm thời Huỳnh Tấn Phát.

Tôi gặp anh Sáu Hoàng khi trời đã tối mịt. Trong sân Dinh Độc Lập một cảnh độc đáo thú vị diễn ra, các tổ trinh sát, thông tin, xe tăng…lần lượt nổi lửa bằng cành cây, đun nước, nấu cơm, làm mì ăn liền rải rác trên sân cỏ. Anh Sáu Hoàng hỏi chuyện tôi qua loa rồi vội vào gặp tướng Minh và đồng sự. Không có tổ quay phim theo anh, cũng không có ai chụp ảnh. Cũng chẳng cần. Bản tin tôi làm về sự kiện này gửi tiếp ra Hà Nội không được đăng. Thì ra ý định xóa sổ cái bình phong Mặt Trận và Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam VN đã được quyết định trước rồi. Họ thâm thật! Họ biết từ nay không cần đóng kịch nữa.

Còn một câu hỏi khác: "Có phải nhà báo Bùi Tín dự đoán tình hình Việt Nam sắp biến động như Đông Âu và Liên Xô, nên đã sớm tách ra khỏi chế độ độc đảng để hy vọng sẽ trở thành một Havel, một Walesa, hay là một Gorbachov?". Không, tôi không bao giờ có cao vọng như thế. Tôi không hề có tham vọng hay ý định là một nhà chính trị, một chính khách.

Từ khi bước vào nghề làm báo (đầu năm 1965) tôi dần dần mê say nghề báo, càng về sau tôi càng xác định sẽ làm báo suốt đời. Tôi quen thân nhiều nhà báo quốc tế Pháp, Đức, Ý, Nhật, Hoa Kỳ, Nga, Thái Lan… trong đó có nhiều nhà báo nổi tiếng. Tôi từng dự nhiều cuộc họp quốc tế ở Bangkok (Thái Lan), Tokyo (Nhật Bản), New York (Hoa Kỳ), Alger (Algeria), Ethiopia, Zimbabwe, thăm Viện báo chí Manila (Philippines)… nên tôi cho rằng viết báo là nghề có ích, thú vị, tự do nhất. Tôi chỉ muốn là nhà báo tự do, không muốn có chức vụ gì, dù là phó tổng, là tổng biên tập. Gia đình tôi, bạn bè tôi đều biết tôi không có máu công danh, máu làm quan, máu hưởng danh lợi. Tôi chỉ có bè bạn thân ở cấp dưới, tôi rất ít tìm gặp cấp trên. Cái tính tôi xưa nay là vậy. Tôi tin là rồi ở ta sẽ có những Walesa, những Havel, những Gorbachov, rồi những Aung San Suu Kyi, nhưng trong đó không có tôi. Tôi tận lực ủng hộ họ. Thế cũng đủ.

Có một cô nhà báo người Việt muốn hỏi tôi về chuyện "16 tấn vàng". Tôi xin hẹn sẽ nói rõ vào một bài sau. Vì bài này đã khá dài.

Cách đây vài năm, bộ tổng tham mưu Hà Nội đã đưa ra một bản văn kiện chính thức kết luận về diễn biến ngày 30-4-1975, có anh Bùi Văn Tùng, anh Nguyễn Văn Hân, anh Phạm Xuân Thệ… tham gia. Họ cố tình không nói gì đến tôi một cách ngay thật, cũng cố tình xuyên tạc để vu cáo tôi là dối trá, tranh công. Họ cố tình xuyên tạc và vu cáo vì tôi vắng mặt, vì tiếng nói trung thực của tôi được đông đảo đồng bào chú ý lắng nghe, do đó gây hại cho chế độ đang lâm vào quá trình băng hoại không sao kìm hãm nổi.

Đó cũng còn vì họ không muốn nhắc đến chuyện hơn 16 tấn vàng do chính quyền Dương Văn Minh giao lại ngày 30-4-1975, qua lời ông phó thủ tướng đặc trách kinh tế - tài chính Nguyễn Văn Hảo chính thức báo cho tôi - và không hề báo cho một ai khác. Họ vẫn chơi trò mờ ảo, ngầm reo rắc hoài nghi, dựa vào bài viết của một nhân viên CIA Frank Snepp, rằng ông Thiệu đã mang cả 16 tấn vàng ròng của Ngân khố sang Đài Loan vào tối ngày 24-4 rồi.
Vì muốn mọi sự được minh bạch, rõ ràng trong lịch sử dân tộc, tôi sẽ hầu chuyện các bạn xa gần trong một bài sau.

Bùi Tín

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.