Hôm nay,  

Ăn Cơm Việt, Thờ Ma Tầu

1/18/201300:00:00(View: 8493)
Tiến sỹ Sử học Nguyễn Nhã: “Không còn là nguy cơ xâm lược mà thật sự đã xảy ra xâm lược lãnh thổ ở Biển Đông… cấp tốc bài trừ các hàng Trung Quốc…”

Tiến sỹ Sử học Nguyễn Nhã, người đã tranh đấu cô đơn trong nhiều năm để nói với thế giới hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa là của Việt Nam, vào ngày 14 tháng 01 (2013) từ Việt Nam, đã báo động với đồng bào trong và ngòai nước: “Tôi vốn là nhà sử học nghiên cứu lịch sử Việt Nam với cách nhìn ngàn năm trước hướng về ngàn năm sau, nhận thấy rằng hiện nay không còn là nguy cơ xâm lược mà thật sự đã xảy ra xâm lược lãnh thổ ở Biển Đông và xâm lược phá nát kinh tế văn hóa xã hội Việt một cách thâm sâu chưa từng có.”

Ông Nhã công bố bài viết của mình trên báo điện tử Bauxite Việt Nam, hai ngày sau khi Cơ quan Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa chất quốc gia Trung Cộng (the National Administration of Surveying, Mappingand Geoinformation, NASMG) công bố bản đồ mới (12/1/2013) “tự đặt chủ quyền mới của Trung Cộng” lên hơn 130 quần đảo và đảo ở Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam, hay toàn vùng Lưỡi Bò mà Trung Cộng gọi là “Đường 9 Đọan”, sau khi đồng ý bỏ bớt 2 đọan tại cuộc đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ với Việt Nam năm 2000.

Trươc đó vào ngày 15/05/2012, Trung Cộng đã phát hành Hộ chiếu mới có in hình Luỡi Bò nhưng bị phủ nhận bởi Việt Nam, Phi Luật Tân và một số nước Đông Nam Á khác. Nhưng hiện nay các Hộ chiếu này vẫn đang lưu hành như một âm mưu “hợp thức hóa” lãnh thổ của Bắc Kinh.

Báo động của Tiến sỹ Nhã không gây bất ngờ nhưng ông là Nhà sử học đầu tiên ở trong nước đã gióng lên tiếng chuông thức tỉnh nhà cầm quyền và nhân dân trước khi qúa trễ để cứu nước ra khỏi bàn tay hiểm độc của Trung Cộng.

Trong bài viết ngắn gọi là “Kế sách cứu nước và xây dựng nội lực đất nước hùng cường thế kỷ XXI” ông nói: “Tôi ước mong tất cả người Việt chúng ta trong và ngoài nước phải bừng tỉnh, cần có tâm và có tầm, nhất là các bạn thanh niên hãy cương quyết xóa đi những gì xấu xí của người Việt, quyết bỏ qua một bên và hàn gắn những đau thương của thế kỷ XX với “một triệu người vui và một triệu người buồn”.

Ông nói với đảng và chính phủ Cộng sản Việt Nam (CSVN): “Nhà nước là yếu tố quan trọng song nhất định từ bỏ mọi bao cấp kể cả bao cấp yêu nước.”

Tại sao Nhà sử học Nguyễn Nhã nói như thế? Bởi vì nhà nước muốn độc quyền mọi thứ, kể cả “độc quyền yêu nước” nên đã sử dụng công an, mật vụ, thuê mướn côn đồ và dân phòng đàn áp người dân biểu tình chống Trung Cộng từ năm 2007 và dã man hơn từ năm 2011 ở Sài Gòn và Hà Nội đối với các cuộc biểu tỉnh bảo vệ Hòang Sa và Trường Sa.

Triong khi đó thì nhà nước đã hòan tòan bất lực trước các hành động của Trung Cộng đàn áp ngư dân Việt đánh bắt ở hai khu vực truyền thống Hòang Sa và Trường Sa.

Khi các tầu hải quân của Trung Cộng có võ trang ngụy trang tầu dân sự dưới tên hải giám xua đuổi, ngăn cấm và tấn công ngư dân Việt thì chúng đã hộ tống hàng nghìn tầu đánh cá của Bắc Kinh đi thu vén hải sản của Việt Nam cả ngày và đêm mà hải quân Việt Nam không dám can thiệp để bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào.

QUÂN ĐỘI PHỤC VỤ NƯỚC NGÒAI?

Trong khi ấy thì Quân đội Nhân dân của Việt Nam, tuy ăn cơm và nhận lương của dân lại được lệnh “không sử dụng lực lượng quân sự để xử lý vấn đề dân sự ” (Báo Quân đội Nhân dân, 17-092012).

Đây là “đề xuất đơn phương” của phiá Việt nam với Trung Cộng trong cuộc Đối thoại chiến lược quốc phòng cấp thứ trưởng Việt -Trung lần thứ ba họp ở Hà Nội đầu tháng 09/2012 giữa Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh với Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.

Nhưng Mã Hiểu Thiên, theo lời Tướng Vịnh, đã “ghi nhận tích cực đề xuất của chúng ta và hai bên đang nghiên cứu triển khai”, nhưng thực tế thì lính Trung Cộng vẫn không ngừng mà còn gia tăng các cuộc truy kích và bắn vào thuyền ngư dân Việt trên biển Đông.

Bên cạnh các hành động chỉ biết “cúi mặt mà đi” đảng và nhà nước CSVN còn tập trung tuyên truyền chủ bại: “Đã có đảng và nhà nước lo” nhằm làm nhụt khí đấu tranh của tòan dân.

Phía Quân đội, điển hình hai người, Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Đăng Thanh và Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh lại thay phiên nhau cổ võ mị dân “cần duy trì hòa bình, cần ổn định để phát triển”.

Ban Tuyên giáo của đảng còn chỉ thị Bộ Thông Tin và Truyền Thông cấm cả báo chí không được viết đích danh quân Trung Cộng đã tấn công chiếm 8 đảo đá ngầm ở Trường Sa và giết hại 64 binh sỹ bảo vệ quần đảo này trong trận chiến ngày 14-03-1988!

Báo ViệtNam Express, trong số ra ngày 10/01/2013, chỉ dám viết “các tàu chiến của đối phương” trong khi Đài Tiếng Nói Việt Nam, trong bản tin ngày 06/01/2013 cũng phải tránh đề cập đến lính Trung Cộng đã tấn công quân Việt Nam trên Trường Sa.

Bản tin chỉ viết trống không: “ Cách đây 25 năm, tháng 3/1988 tại vùng biển Trường Sa ở các bãi đá ngầm Gạc Ma, Len Đao, Colin, 64 cán bộ chiến sĩ, cán bộ Hải quân nhân dân Việt Nam đã dũng cảm chiến đấu kiên quyết giữ đảo.”

Cách nay 3 năm, trong lễ tưởng niệm tại Trường Sa ngày 09-05-2010, ngay cả Sỹ quan Hải quân CSVN cũng chỉ dám nói “lực lượng quân sự Nước Ngoài” đã tấn công và chiếm đóng một số vị trí của Trường Sa.

Hai Thông tín viên Mạnh Hùng và Việt Cường của Đài Tiếng Nói Việt Nam viết: “ Trong diễn văn đọc tại Lễ tưởng niệm, Thượng tá Trịnh Lương Vượng, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn M46, vùng D Hải quân nhấn mạnh: Với mưu đồ thôn tính Trường Sa, độc chiếm biển Đông, từ cuối năm 1987, đầu năm 1988, lực lượng quân sự “nước ngoài” đã ngang nhiên chiếm đóng một số bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia với phương châm “không dùng vũ lực để giải quyết những vấn đề tranh chấp trên biển”. Bất chấp lẽ phải, quân đội “nước ngoài” ngang nhiên tấn công quân sự, bắn chìm, bắn cháy 3 tàu vận tải của ta.”

Khi nói về tình hình hiện nay ở vùng biển Trường Sa, Thượng tá Vượng nói tiếp: “ Với toan tính và tham vọng thôn tính Trường Sa, độc chiếm biển Đông của “nước ngoài”, Trường Sa hôm nay vẫn chưa thực sự bình yên. Chúng tôi, những người hiện đang tiếp tục sự nghiệp của các đồng chí, xin thề trước anh linh của tổ tiên, trước hương hồn của các đồng chí, đồng thời xin nhắn nhủ tới các thế hệ mai sau, quyết tâm bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc và xây dựng Trường Sa trở thành một huyện đảo giàu mạnh, ngang tầm với vị trí chiến lược trên Biển Đông”.

Nghiêm trọng và nhục nhã hơn, đảng còn cấm không cho dân tổ chức tưởng niệm mỗi năm để tri ơn trên 40 ngàn chiến sỹ và đồng bào đã hy sinh trong trận chiến chống quân Trung Cộng xâm lược trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979.

Bộ Thông tin và Truyền thông của CSVN còn cấm cả báo chí viết tầu võ trang của Trung Cộng tấn công ngư dân Việt Nam, thay vào đó phải viết là “tầu lạ”!

Tại sao lại nhục nhã như thế? Hào khí dân tộc để đâu mà những người lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN lại cả gan “trôi tro trát trấu” vào mặt tổ tiên và để lại gương mù gương xấu cho hậu thế như vậy?

Do đó, Tiến sỹ Nhã mới nói thẳng với nhà nước: “Phải tạo động lực yêu nước trong đấu tranh và xây dựng, lấy mối nhục tụt hậu và bị cường quốc láng giềng xử ép, làm nhục làm động cơ hành động xây dựng đất nước.”

Ông nhấn mạnh: “Kế sách cứu nước ngoài chiến lược lâu dài trên, phải ưu tiên trước tiên tập trung chiến lược đối phó xâm lược ở Biển Đông với ngoại giao khôn ngoan hòa bình đa phương, đa dạng, tích cực phòng vệ vững chắc các hải đảo, quốc phòng toàn dân, mỗi ngư dân là một dân binh.”

XÂM LĂNG KINH TẾ ĐỘC HẠI

Ngoài xâm lăng lãnh thổ ở Biển Đông, Trung Cộng đã xâm lăng cả trên đất liền núp sau danh nghĩa hợp tác khai thác Bauxite ở Tây Nguyên (Tân Rai, Lâm Đồng và Nhân Cơ, Dark Nông) qua thỏa hiệp thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh.

Nhiều quan chức địa phương, vì mối lợi trước mắt, đã cho người Trung Hoa Bắc Kinh, Đài loan và Hồng Kông thuê hàng ngàn mẫu đất rừng dọc biên giới Việt-Trung trong thời hạn 50 năm và mở mang cơ sở kinh tế ở nhiều vùng đất chiến lược ven biển. Bên cạnh đó là sự có mặt của một đạo quân kinh tế lên tới hàng chục ngàn người, phần nhiều là thanh niên trai tráng, được ngụy trang dưới lới vỏ bọc công nhân lao động và chuyên viên đang sống rải rác từ các tỉnh cực bắc xuống tận mũi Cà Mâu mà Bộ Lao động Việt Nam không kiểm soát được!

Vì vậy Tiến sỹ Nhã đã kêu gọi phải cấp thời cứu nguy và tẩy chay hàng hoá của Trung Cộng: “Với xâm lăng kinh tế, văn hóa xã hội thì quyết bảo vệ bản sắc Việt, xã hội lành mạnh, chống văn hóa, giáo dục nô dịch ngoại lai, xây dựng nền kinh tế tự lập tự cường, không lệ thuộc, đặc biệt cấp tốc bài trừ các hàng Trung Quốc và cách nuôi trồng Trung Quốc độc hại như rau củ quả, thực phẩm, các gia vị, phẩm màu, các đồ chơi cùng nhiều hàng hóa khác rất độc hại đang đe dọa đến sự sống còn của mỗi người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam!”

Như vậy, sau khi Trung Cộng công bố thành lập Thành phố Tam Sa ngày 24/07/2012 gồm Hòang Sa, Trường Sa của Việt Nam và Trung Sa (vùng Bãi Cỏ Rong, hay bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough mà Trung Cộng có tranh chấp với Phi Luật Tân), Tổng công ty Dầu khí Hải Dương của họ (China National Offshore Oil Corporation, CNOOC) đã công khai gọi đấu thầu quốc tế tìm dầu tại 9 lô nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam giữa Trường Sa và đất liền.

Tiếp theo sau là hàng loạt các hành động “bành trướng chủ quyền” được ghi trong “Điều lệ quản lý trị an biên phòng ven biển Hải Nam”, theo tin của Việt Nam, Trung Cộng đã: Tổ chức tập trận tại đảo Quang Hòa, thuộc quần đảo Hoàng Sa; tổ chức khai thông và cung cấp dịch vụ 3G, CDMA tại đá Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa; phê duyệt “Quy hoạch phát triển du lịch tàu khách thành phố Tam Á 2012 – 2022” trong đó có tuyến đi tới các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, v.v…

Hành động ngang ngược như thế thì rõ ràng Bắc Kinh đã nuốt phương châm 16 chữ: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt: “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

Nhưng phía nhà nước Việt Nam thì cũng chỉ biết “giương mắt ếch” ra mà nhìn qua miệng lưỡi trơn tru của người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị như ông ta nói hôm 14/01/2013: “Những hoạt động nêu trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp, trái với tinh thần DOC, không có lợi cho hòa bình ổn định trong khu vực và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.

Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu Trung Quốc hủy bỏ ngay các hoạt động sai trái đó .”

Ai cũng biết, sau 10 năm (2002-2012) thi hành thỏa hiệp giữa Trung Cộng và 10 nước trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á (The Association of South East Asia Nations, ASEAN), được gọi là “Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Biển Đông” (Declaration Of Conduct, DOC) Trung Cộng là quốc gia vi phạm mọi điều khỏan của Thỏa hiệp này, trong đó quan trọng nhất là các Điều:

-“Các Bên khẳng định cam kết đối với mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật Biển 1982, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, năm nguyên tắc chung sống hòa bình và các nguyên tắc được công nhận rộng rãi khác của pháp luật quốc tế, coi đây là các quy phạm cơ bản điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia.

-“Các Bên cam kết giải quyết mọi tranh chấp lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thông qua trao đổi ý kiến và thương lượng giữa các quốc gia có chủ quyền liên quan phù hợp với các nguyên tắc được công nhận rộng rãi của pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển 1982.

-Các Bên khẳng định tôn trọng tự do hàng hải và tự do bay ở Biển Đông phù hợp với các quy định của Công ước Luật Biển 1982.

-Các Bên cam kết kiềm chế các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định, trong đó kiềm chế không đưa người lên các đảo, bãi hiện nay không có người ở.”

Sau cùng, các bên cam kết:”Các Bên khẳng định việc thông qua Luật ứng xử ở Biển Đông (Code of Conduct,COC) sẽ thúc đẩy hơn nữa hòa bình và ổn định trong khu vực và đồng ý sẽ cùng nhau làm việc để đạt mục tiêu này.”


Nhưng sau nhiều Hội nghị, khối ASEAN và Trung Cộng vẫn không sao đạt được COC để khép các bên vào một văn kiện có tính pháp lý ràng buộc như luật định, trái với DOC là văn kiện không có tính pháp lý mà tùy vào thiện chí thi hành của các bên.

Phía Trung Cộng vẫn dẻo mép tham dự mọi phiên họp nhưng lại ma lanh bảo rằng “hiện tại chưa phải thời điểm thích hợp” để kéo dài thời gian cho Bắc Kinh tự tung tự tác lấn chiếm phi pháp lãnh thổ của các nước khác trên Biển Đông, trong đó Việt Nam là nước chịu thiệt thòi nhất trong vùng Đông Nam Á.

Đấy là chưa kể có một số nước trong khối ASEAN, tiêu biểu như Cao Miên, đã bị Trung Cộng bỏ tiền ra mua nhằm chia rẽ khối ASEAN khiến khối này không đồng thuận được về một kế họach chung để đối phó với âm mưu xảo quyệt của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Nam Vang đã công khai đứng về phiá Bắc Kinh trong suốt nhiệm kỳ nước này giữ vai Chủ tịch luân phiên khối ASEAN trong năm 2012.

Như vậy, nếu chẳng may không ai ngăn chặn được sự bành trướng lãnh thổ của Trung Cộng trên Biển Đông qua hình thức công bố bản đồ mới chiếm trọn Biển Đông và tờ Hộ chiếu có in hình Lưỡi Bò thì Việt Nam sẽ mất nốt quần đảo Trường Sa trong bất kỳ lúc nào Trung Cộng muốn.

Quân đội Việt Nam, qua chiến dịch “đầu hàng Trung Cộng trước khi nổ súng” của hai ông Trần Đăng Thanh và Nguyễn Chí Vịnh và qua hành động “nhớ ơn kẻ xâm lược” của một số Lãnh đạo trong nội bộ đảng CSVN đã lộ diện trong năm 2012 thì khả năng đối kháng Bắc Kinh về mặt ngọai giao và chính trị sẽ khó đạt được, nhất là khi “liên hệ máu thịt” giữa đảng và nhân dân không còn như trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ nữa vì ngày nay, quyền làm chủ đất nước của người dân đã bị đảng gạt qua một bên.

Vì vậy mà viễn ảnh Việt Nam sẽ bị mất tài sản ở Biển Đông về tay Trung Cộng không còn là chuyện ảo tưởng hay phóng đại trong tình hình hiện nay.

Theo Tài liệu của nhóm nghiên cứu “Qũy Biển Đông”, diện tích Biển Đông có khoảng 3,5 triệu km vuông với số lượng đánh bắt khoảng 7 - 8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới. Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới.

Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày.

Nhưng đánh giá của Trung Cộng cho biết trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới.

Như vậy, nếu không bị ngăn chặn, Trung Cộng sẽ chiếm hết lãnh thổ của các nước có tranh chấp trực tiếp ở Biển Đông với Bắc Kinh gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Ma Lai Á và Brunei.

Ấy là không kể Đài Loan đã kiểm soát đảo Ba Bình, hòn đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa của Việt Nam, từ Thế chiến thứ II, và đã công bố sẽ khai thác dầu khí ở đó trong năm 2013.

Tin này được Cục trưởng Cục Năng lượng Âu Gia Thụy thông báo vào ngày 27/12/2012, theo đó một ngân sách khỏang 17 triệu đô la Đài Loan ( khỏang 585.000 đô la Mỹ) được dành riêng cho dự án này.

Mặt khác bản đồ mới của Trung Cộng cũng mô tả hình ảnh thu nhỏ của quần đảo Điếu Ngư (Senkaku), có tranh chấp với Nhật Bản, ở vị trí tương quan với các đảo khác của Trung Cộng và Đài Loan mà Bắc Kinh coi là một tỉnh của mình.

MIỆNG LƯỠI CHỦ BẠI

Đứng trước kế họach bành trướng lãnh thổ của Trung Cộng rõ như ban ngày như thế mà Lãnh đạo CSVN vẫn ù lì mu ni che tai trước những lời kêu than của nhân dân. Ai chống Trung Cộng thì họ cho công an khủng bố, đe dọa, bắt bỏ tù. Ai yêu cầu họ hãy mở mắt để cứu nước thì họ vu oan cáo vạ là tay sai của “những thế lực thù địch” bên ngòai hay nằm trong âm mưu của “diễn biến hòa bình” chống lại nhân dân và tổ quốc!

Tệ hại hơn là bị buộc vào các tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; hay “phá rối an ninh.”

Trong khi đó thì có những kẻ công khai reo rắc tinh thần chủ bại, đầu hàng địch như ông Đại tá Trần Đăng Thanh đã thuyết giáo với các lãnh đạo Đảng ủy khối, lãnh đạo Đảng, Tuyên giáo, Công tác chính trị, Quản lý sinh viên, Đoàn, Hội thanh niên các trường Đại học-Cao đẳng Hà Nội hồi giữa tháng 12/2012.

Ông Thanh bảo chúng ta phải: “Khôn khéo nghĩa là đừng để xảy ra chiến tranh, đừng để va chạm, cứ tránh đã. Cha ông ta đã dạy: Tránh voi không xấu mặt nào. Cứ tránh đi đã, còn khi nào không tránh được thì ta phải khẳng định: dù rằng đời ta thích hoa hồng, khi nào kẻ thù buộc ta ôm cây súng. Phải nói rõ là như vậy chứ, đúng không? Phải tránh. Kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích và phải kiên định, đấu tranh bằng biện pháp hòa bình.”

Ông kêu gọi: “Trước mắt là chúng ta phải tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng chúng ta, sự điều hành của Chính phủ, cố gắng làm sao đừng để cho những vấn đề gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Và hôm nay các đồng chí nào tự ái thì tôi cũng mạnh dạn, nếu trường đại học nào còn để sinh viên tham gia biểu tình bất hợp pháp trước hết khuyết điểm thuộc về các đồng chí Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu trường đó, trước hết thuộc về Bí thư Đảng ủy – phòng quản lý sinh viên của trường Đại học đó. Nếu để cho công an thành phố Hà Nội hoặc, v.v… người ta giữ sinh viên của mình, người ta điện mời thầy nọ mời thầy kia, ở trường nọ ở trường kia đến nhận sinh viên của mình thì đấy là khuyết điểm của chúng ta. Và tôi hy vọng rằng tất cả các thầy với trách nhiệm và với lòng tin của chúng ta, chúng ta sẽ không để những trường hợp đó xảy ra.”

Sauk hi “đe dọa” đừng để cho sinh viên xuống đường biểu tình chống Trung Cộng, ông Thanh tyuyên truyền phải biết ơn anh hàng xóm “lưu manh” thế này: ”Cái điều thứ hai chúng ta không được quên đó là tháng 12 năm 1950 chúng ta giành thắng lợi chiến dịch biên giới, khai thông biên giới Việt Nam – Trung Quốc. Và trong 4 năm kháng chiến chống Pháp, 21 năm chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ. Như vậy ta không quên họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc hai điều không được quên.”

Người thứ hai, ở cấp Thượng tướng là ông Nguyễn Chí Vịnh còn khuyên không nên có các cuộc biểu tình chống Trung Cộng.

Ông nói với Báo Tuổi Trẻ hôm 01/01/013: “ Trước đây tôi đã nói về vấn đề này và bây giờ vẫn nói rằng những cuộc biểu tình đó là không nên. Để đối phó với tình hình phức tạp trên biển Đông hiện nay, chúng ta cần một sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và Nhà nước cũng như giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Có thể người dân chưa thật hài lòng và yên tâm vì chưa được cung cấp đầy đủ thông tin, nhưng tôi chỉ muốn nói với những người biểu tình nói riêng và tất cả người dân rằng những người có trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, quân đội không một ai chịu để mất chủ quyền lãnh thổ cả. Người dân phải tin vào điều đó.

Có thể đất nước ta có tham nhũng, lãng phí, có tiêu cực, có thể một bộ phận cán bộ suy thoái về đạo đức, nhưng tuyệt đại đa số nhân dân ta không ai có thể quên đi lợi ích quốc gia dân tộc, quên đi chủ quyền lãnh thổ. Biểu tình bây giờ sẽ gây mất ổn định. Trong khi đó đất nước ta đang hơn bao giờ hết cần ổn định, cần sự đồng thuận để phát triển, để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

Chúng ta trân trọng tình cảm, ý chí của những người thật sự biểu tình vì yêu nước. Nhưng cũng phải thấy rằng với những ai có dã tâm độc chiếm biển Đông thì họ sẽ viện cớ biểu tình để xuyên tạc thiện chí của Việt Nam, xuyên tạc chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình của Việt Nam. Vậy thì ai đang chờ biểu tình và biểu tình có lợi cho ai?”

Nói như ông Vịnh là ông mới nhìn quyền lợi của đất nước chưa qua khỏi cáo lỗ mũi của mình. Ông có biết rằng nhân dân Phi Luật Tân đã đóng khố vẽ hình Lưỡi Bò biểu tình trước Tòa Đại sứ Trung Cộng ở Thủ tô Manila thì họ cũng sở bị Trung Cộng coi là Phi Luật Tân không có thiện chí à?

Ai sợ bị xuyên tạc, chính phủ Phi Luật Tân hay nhà nước Việt Nam?

Hẳn ông Vịnh còn nhớ ý chí và lòng ái quốc của Tổng thống Phi Luật Tân, ông Benigno Aquino III tại Hội nghị các nước ASEAN ở Nam Vang hôm 19/11/2012, khi ông bất ngờ phản đối Thủ tướng Cao Miên Hun Sen nói rằng đã có sự đồng thuận không “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông.

Ông Aquino III nói với các phái đòan không làm gì có chuyện tất cả các nước của ASEAN đã đồng ý như lời tuyên bố của ông Hun Sen.

Ngược lại, Tổng thống Aquino III đòi phải mời các quốc gia có quyền lợi tại khu vực, điển hình như Hoa Kỳ, cùng tham dự thương thuyết chủ quyền trên biển với Trung Quốc.

Phi Luật Tân nói Việt nam là nước thứ hai tán thành việc phải “quốc tế hoá” vấn đề Biển Đông, nhưng đại biểu của Việt Nam là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Ngọai trường Phạm Bình Minh đã không dám nói trước sự hiện diện của Thủ tướng Trung Cộng Ôn Gia Bảo!

Như vậy tại sao người Phi Luật Tân không sợ bị Trung Cộng chê trách thiếu thiện chí mà Việt Nam, nói như ông Vịnh, lại sợ bị Tầu chê trách đến thế?

Cũng giống như ông Thanh, ông Vịnh nói với Báo Tuổi Trẻ: “Thế mạnh và công cụ đấu tranh quan trọng nhất của chúng ta lúc này là chính nghĩa, là tuân thủ luật pháp quốc tế, là quyết tâm rất rõ ràng giải quyết bằng biện pháp hòa bình.”

Nhưng “hòa bình” không có nghĩa là ngồi yên để cho kẻ thù tát cho nổ đom đóm mắt ra mới bừng tỉnh dậy thì nước có còn không?

Cũng nên nhắc lại vào ngày 28/8/2011, cũng chính ông Nguyễn Chí Vịnh khi ấy là, Trung tướng, Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam trong lần họp “Đối thoại chiến lược quốc phòng-an ninh Việt - Trung lần thứ hai” tại Bắc Kinh đã cam kết với Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc sẽ dẹp các cuộc biểu tình chống Trung Cộng ở Việt Nam.

Thông tín viên Bảo Trung của Báo Quân đội Nhân dân viết ngày 30-8-2011:“Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng thông báo chủ trương kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với tinh thần không để sự việc tái diễn.“Các thế lực thù địch hiện có hai luận điệu chống phá. Thứ nhất, là Việt Nam dựa vào Mỹ để chống Trung Quốc. Thứ hai, là Việt Nam nhượng bộ để Trung Quốc lấy đất, lấy biển Việt Nam. Đây là các luận điệu bất lợi cho Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như quan hệ Việt Nam-Trung Quốc.

Chúng ta cần làm cho nhân dân hai nước hiểu rõ, giữa Việt Nam và Trung Quốc còn tồn tại vấn đề nhưng hai Đảng, hai Nhà nước đã cam kết xử lý bằng biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế, với giải pháp hai bên cùng có thể chấp nhận được”.

Ngay sau đó, công an Sài Gòn và Hà Nội được lệnh ra tay đán áp dã man người dân yêu nước biểu tình chống Trung Cộng.

Chuyện ông Vịnh không khác gì việc Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã phải báo cáo trước với Thượng tướng Trần Bỉnh Đức, ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ủy viên Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng nhân dân (GPND) Trung Quốc trong cuộc họp ở Bắc Kinh chiều ngày 16-04 (2012) rằng: “Việt Nam không chấp nhận chế độ đa nguyên, đa đảng; việc sửa đổi Hiến pháp sắp tới vẫn khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam.” (Báo Quân đội Nhân dân, 16-04-2012)

Lời hứa của ông Tỵ xẩy ra khi Ủy ban Sọan thảo sửa đồi Hiến pháp của Việt Nam chưa đưa ra bất kỳ lời tuyên bố nào thì phải hiểu chỉ thị này phải đến từ Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng được truyền xuống cho Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh để ông Than chuyển cho ông Tỵ. Vì ở cấp bậc như ông Tỵ, có cho ăn vàng ông ta cũng không dám cam kết với tướng Tầu như thế!

Như vậy phải chăng trong hàng ngũ lãnh đạo Việt Nam cũng đã có những kẻ “ăn cơm Việt mà lại đi thờ ma Tầu” mà người dân chưa hay biết vì bên trong chiếc áo Việt Nam họ đã mặc sẵn chiếc áo lót “made in chia” nên không ai có thể thấy được?

Phạm Trần
(01/013)

Reader's Comment
1/19/201310:39:27
Guest
chế độ việt cộng là chế độ hèn nhát,khiếp nhược,bù nhìn tay sai của thiên triều,chúng bưng bô quan thầy cộng sản,một lủ man di mọi rợ việt nam cộng sản,hèn với giặc và ác với dân.
Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.