(Lời tâm tình: “Sử Việt” chỉ khái quát các Nhân vật lịch sử, không đi sâu từng chi tiết của Nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung của đề tài đã biên soạn. Xin độc giả đừng xem đấy là chính sử, vì “Thiết nghĩ” chỉ là ý kiến riêng của tác giả. “Sử Việt” đăng vào ngày thứ Ba (Tuesday) mỗi tuần.)
BÀ TRIỆU: TRIỆU THỊ TRINH (225 - 248)
Nhà Hán mất, Tàu chia ra: Ngụy, Thục và Ngô, nước ta bị nhà Ngô cai trị. Triệu Thị Trinh, quê ở huyện Yên Định, Thanh Hóa, là em gái của Huyện lệnh Triệu Quốc Đạt, vì cha mẹ đã qua đời sớm nên Triệu Thị Trinh ở với người anh trai.
Năm 19 tuổi, Triệu Thị Trinh nổi tiếng xinh đẹp, Bà trả lời cho một người đến mai mối về việc hôn nhân, Bà thẳng thắn nói: “Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể Đông, giành lại giang sơn, cởi ách đô hộ cho muôn dân, không cúi đầu, khom lưng làm tì thiếp cho người ta”.
Tương truyền vùng Cẩm Trướng hồi đó có con voi trắng một ngà rất hung dữ, ai cũng phải sợ. Bà chinh phục được và thuần dưỡng. Về sau, voi rất trung thành với Bà nơi trận mạc.
Tương truyền chị dâu của Triệu Thị Trinh (vợ Triệu Quốc Đạt) là một người gian ác, đã mật báo cho quân Ngô biết kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh. Trước khi đến Phú Điền, Triệu Thị Trinh đã giết chết người chị dâu để cảnh cáo tất cả những kẻ nào nuôi lòng phản trắc.
Sau đấy, Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa đánh quân Ngô. Chiếm cứ vùng núi Nưa (huyện Triệu Sơn). Năm 248, Nghĩa quân chiếm quận lỵ Tư Phố của quan quân Đông Ngô, ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Sau đấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời, Nghĩa quân tôn bà làm minh chủ.
Bà Triệu ra trận, mặc áo giáp bằng đồng, cài trâm vàng, cỡi voi trắng một ngà (voi này do bà thu phục) bà luôn xông xáo đi đầu trận, Nghĩa quân và dân chúng, tôn bà “Nhụy Kiều tướng quân”. Đồng bào còn ca tụng:
Ru con, con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cỡi voi đánh Tàu
Quân Ngô gọi bà là Lệ Hải Bà Vương (Nữ Vương xinh đẹp của vùng ven biển), còn truyền tụng 2 câu thơ: “Hoành qua đương hổ dị. Đối diện Bà Vương nan”
Nghĩa là: Múa giáo đánh hổ dễ. Đối địch Vua bà thì khó.
Thứ sử Giao Châu, thấy bà ra trận luôn xông xáo can trường, nên sợ sệt chạy trốn mất tích. Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh, vua Ngô là Tôn Quyền cử tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm Thứ sử Giao Châu, hàm An Nam Hiệu úy, đem 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau đấy, những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền. Mặc dù nghĩa quân của bà chống trả quyết liệt, nhưng quân ít, lương thiếu, nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây hơn 5 tháng thì thất bại.
Trước tình thế nguy ngập, Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm 248 (Mậu Thìn), lúc Bà mới 23 tuổi.
Sau này, Lý Nam Đế cho lập đền thờ bà ở Phú Điền (Thanh Hóa). Hiện nay, nơi núi Tùng (xã Triệu Lộc), vẫn còn di tích lăng mộ của bà. Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai (thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, cách TP Thanh Hoá 18km, về phía Bắc) là đền thờ Bà. Hằng năm, vào ngày 21 tháng 2 âm lịch, người dân trong vùng tổ chức lễ tế giỗ Bà.
*- Thiết nghĩ: Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, có rất nhiều giới nữ lưu thường sát cánh với giới mày râu, như bà Đặng Thị Nhu, Lê Thị Đàn, Nguyễn Thị Giang... Nhưng danh tiếng và thành quả nổi bậc hơn hết phải kể đến Hai Bà Trưng và Bà Triệu. Bà Triệu khởi nghĩa vào thời nhà Ngô (Tàu) tưởng cũng nên nhắc qua nhà Ngô, để thấy sự tương quan dễ dàng hơn. Nhà Hậu Hán suy yếu, nước Tàu chia ra làm 3 nước gọi là “Tam Quốc”, gồm có: Nguỵ (Tào Phi con của Tào Tháo), Thục (Lưu Bị) và Ngô, tức là Đông Ngô (222-280), do Tôn Quyền làm vua. Lãnh thổ nước Ngô ở phía Đông Nam của Trung Quốc. Kinh đô nước Ngô ở Kiến Nghiệp (nay là Nam Kinh của Tàu), nhà Ngô lại thay nhà Hậu Hán đô hộ nước ta.
“Đô hộ” thường đi đôi với hành động “đàn áp”; dân tộc ta bị nhà Ngô đô hộ khắc nghiệt cùng tận, có lẽ chưa từng thấy một chính quyền đô hộ nào tàn bạo, độc ác hơn. Với nguyên tắc “càng đè nén thì sức bật càng mạnh”, cùng nguyên tắc ấy, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên đánh đuổi xâm lăng, để giành độc lập và cứu nước nhà. Những anh hùng kiệt nữ thời ấy, phải trân trọng và ngưỡng mộ bà Triệu Thị Trinh là danh tiếng lẫy lừng hơn cả.
Ai đã xem qua Tam Quốc Chí, đều biết lực lượng của Nguỵ, Thục, Ngô đều ngang ngửa và tranh giành nhau, Nên cả 3 nước ấy luôn chiêu mộ, phát triển quân đội để sống còn. Vua Ngô thấy Giao Châu đất rộng, nhân lực đông đảo, cũng là nơi có thể bắt thanh niên làm tân binh; nên điều viên tướng rất thiện chiến là Lục Dận và nhiều tuỳ tướng từng trải chiến trận, để đủ sức đàn áp quân Bà Triệu. Đến Giao Châu, Lục Dận nghĩ kế: “Tri bỉ, tri kỷ, bách chiến bách thắng” cho người do thám để điều tra về quân tình của Bà Triệu và mua chuộc những kẻ bộ hạ Bà. Tương truyền, sau đấy Lục Dận đã cho quân Ngô cởi truồng (giống quân Hán đánh với Hai Bà Trưng) ra trận, Bà triệu là thục nữ nết na thánh thiện, không thể tiến gần sát những tên giặc đang cởi truồng, nhờ vậy quân Ngô đã thắng bằng hành động quá nham nhở và xấu xa?!.
Cảm phục: Bà Triệu
Bồ liễu vẫy vùng, ai thấy không?!
Đông Ngô xâm lược, xót xa trông
Giữ gìn non nước, dù nam nữ
Đánh đuổi ngoại xâm, dẫu má hồng!
_____
Ghi chú:
Sau khi tôi ra mắt sách “Nhớ Nguồn” vào năm 2008. Tôi có nhận điện thoại và Email của một số độc giả, đã hỏi: “Bà Triệu vú dài” là gì?!. Nhân tiện tham khảo tài liệu, tôi ghi nơi đây như để trả lời điện thoại và Email ở trên của bạn đọc. Về “Hình tượng vú dài”. Trong “Sách Giao Chỉ chí” đã chép: Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần.
Trong sách “Những Trang Sử vẻ vang” lại giải thích: Người Phụ nữ khổng lồ, vú dài là huyền thoại về bà Mẹ-Đất (terre-Mère, Déesse-Mère). Sau hình tượng đó được khoát cho bất kỳ người phụ nữ hiệt kiệt nào . Các tác giả sách Lịch sử Việt Nam cũng đã cho rằng huyền thoại về một người phụ nữ có “vú dài ba thước” vốn rất phổ biến ở phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện “Tẩy thị phu nhân”, “Tiểu quốc phu nhân” đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước...Có thể, vì Bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho Bà chăng?
BÀ TRIỆU: TRIỆU THỊ TRINH (225 - 248)
Nhà Hán mất, Tàu chia ra: Ngụy, Thục và Ngô, nước ta bị nhà Ngô cai trị. Triệu Thị Trinh, quê ở huyện Yên Định, Thanh Hóa, là em gái của Huyện lệnh Triệu Quốc Đạt, vì cha mẹ đã qua đời sớm nên Triệu Thị Trinh ở với người anh trai.
Năm 19 tuổi, Triệu Thị Trinh nổi tiếng xinh đẹp, Bà trả lời cho một người đến mai mối về việc hôn nhân, Bà thẳng thắn nói: “Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể Đông, giành lại giang sơn, cởi ách đô hộ cho muôn dân, không cúi đầu, khom lưng làm tì thiếp cho người ta”.
Tương truyền vùng Cẩm Trướng hồi đó có con voi trắng một ngà rất hung dữ, ai cũng phải sợ. Bà chinh phục được và thuần dưỡng. Về sau, voi rất trung thành với Bà nơi trận mạc.
Tương truyền chị dâu của Triệu Thị Trinh (vợ Triệu Quốc Đạt) là một người gian ác, đã mật báo cho quân Ngô biết kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh. Trước khi đến Phú Điền, Triệu Thị Trinh đã giết chết người chị dâu để cảnh cáo tất cả những kẻ nào nuôi lòng phản trắc.
Sau đấy, Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa đánh quân Ngô. Chiếm cứ vùng núi Nưa (huyện Triệu Sơn). Năm 248, Nghĩa quân chiếm quận lỵ Tư Phố của quan quân Đông Ngô, ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Sau đấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời, Nghĩa quân tôn bà làm minh chủ.
Bà Triệu ra trận, mặc áo giáp bằng đồng, cài trâm vàng, cỡi voi trắng một ngà (voi này do bà thu phục) bà luôn xông xáo đi đầu trận, Nghĩa quân và dân chúng, tôn bà “Nhụy Kiều tướng quân”. Đồng bào còn ca tụng:
Ru con, con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cỡi voi đánh Tàu
Quân Ngô gọi bà là Lệ Hải Bà Vương (Nữ Vương xinh đẹp của vùng ven biển), còn truyền tụng 2 câu thơ: “Hoành qua đương hổ dị. Đối diện Bà Vương nan”
Nghĩa là: Múa giáo đánh hổ dễ. Đối địch Vua bà thì khó.
Thứ sử Giao Châu, thấy bà ra trận luôn xông xáo can trường, nên sợ sệt chạy trốn mất tích. Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh, vua Ngô là Tôn Quyền cử tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm Thứ sử Giao Châu, hàm An Nam Hiệu úy, đem 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau đấy, những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền. Mặc dù nghĩa quân của bà chống trả quyết liệt, nhưng quân ít, lương thiếu, nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây hơn 5 tháng thì thất bại.
Trước tình thế nguy ngập, Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm 248 (Mậu Thìn), lúc Bà mới 23 tuổi.
Sau này, Lý Nam Đế cho lập đền thờ bà ở Phú Điền (Thanh Hóa). Hiện nay, nơi núi Tùng (xã Triệu Lộc), vẫn còn di tích lăng mộ của bà. Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai (thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, cách TP Thanh Hoá 18km, về phía Bắc) là đền thờ Bà. Hằng năm, vào ngày 21 tháng 2 âm lịch, người dân trong vùng tổ chức lễ tế giỗ Bà.
*- Thiết nghĩ: Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, có rất nhiều giới nữ lưu thường sát cánh với giới mày râu, như bà Đặng Thị Nhu, Lê Thị Đàn, Nguyễn Thị Giang... Nhưng danh tiếng và thành quả nổi bậc hơn hết phải kể đến Hai Bà Trưng và Bà Triệu. Bà Triệu khởi nghĩa vào thời nhà Ngô (Tàu) tưởng cũng nên nhắc qua nhà Ngô, để thấy sự tương quan dễ dàng hơn. Nhà Hậu Hán suy yếu, nước Tàu chia ra làm 3 nước gọi là “Tam Quốc”, gồm có: Nguỵ (Tào Phi con của Tào Tháo), Thục (Lưu Bị) và Ngô, tức là Đông Ngô (222-280), do Tôn Quyền làm vua. Lãnh thổ nước Ngô ở phía Đông Nam của Trung Quốc. Kinh đô nước Ngô ở Kiến Nghiệp (nay là Nam Kinh của Tàu), nhà Ngô lại thay nhà Hậu Hán đô hộ nước ta.
“Đô hộ” thường đi đôi với hành động “đàn áp”; dân tộc ta bị nhà Ngô đô hộ khắc nghiệt cùng tận, có lẽ chưa từng thấy một chính quyền đô hộ nào tàn bạo, độc ác hơn. Với nguyên tắc “càng đè nén thì sức bật càng mạnh”, cùng nguyên tắc ấy, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên đánh đuổi xâm lăng, để giành độc lập và cứu nước nhà. Những anh hùng kiệt nữ thời ấy, phải trân trọng và ngưỡng mộ bà Triệu Thị Trinh là danh tiếng lẫy lừng hơn cả.
Ai đã xem qua Tam Quốc Chí, đều biết lực lượng của Nguỵ, Thục, Ngô đều ngang ngửa và tranh giành nhau, Nên cả 3 nước ấy luôn chiêu mộ, phát triển quân đội để sống còn. Vua Ngô thấy Giao Châu đất rộng, nhân lực đông đảo, cũng là nơi có thể bắt thanh niên làm tân binh; nên điều viên tướng rất thiện chiến là Lục Dận và nhiều tuỳ tướng từng trải chiến trận, để đủ sức đàn áp quân Bà Triệu. Đến Giao Châu, Lục Dận nghĩ kế: “Tri bỉ, tri kỷ, bách chiến bách thắng” cho người do thám để điều tra về quân tình của Bà Triệu và mua chuộc những kẻ bộ hạ Bà. Tương truyền, sau đấy Lục Dận đã cho quân Ngô cởi truồng (giống quân Hán đánh với Hai Bà Trưng) ra trận, Bà triệu là thục nữ nết na thánh thiện, không thể tiến gần sát những tên giặc đang cởi truồng, nhờ vậy quân Ngô đã thắng bằng hành động quá nham nhở và xấu xa?!.
Cảm phục: Bà Triệu
Bồ liễu vẫy vùng, ai thấy không?!
Đông Ngô xâm lược, xót xa trông
Giữ gìn non nước, dù nam nữ
Đánh đuổi ngoại xâm, dẫu má hồng!
_____
Ghi chú:
Sau khi tôi ra mắt sách “Nhớ Nguồn” vào năm 2008. Tôi có nhận điện thoại và Email của một số độc giả, đã hỏi: “Bà Triệu vú dài” là gì?!. Nhân tiện tham khảo tài liệu, tôi ghi nơi đây như để trả lời điện thoại và Email ở trên của bạn đọc. Về “Hình tượng vú dài”. Trong “Sách Giao Chỉ chí” đã chép: Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần.
Trong sách “Những Trang Sử vẻ vang” lại giải thích: Người Phụ nữ khổng lồ, vú dài là huyền thoại về bà Mẹ-Đất (terre-Mère, Déesse-Mère). Sau hình tượng đó được khoát cho bất kỳ người phụ nữ hiệt kiệt nào . Các tác giả sách Lịch sử Việt Nam cũng đã cho rằng huyền thoại về một người phụ nữ có “vú dài ba thước” vốn rất phổ biến ở phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện “Tẩy thị phu nhân”, “Tiểu quốc phu nhân” đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước...Có thể, vì Bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho Bà chăng?
Gửi ý kiến của bạn