Hôm nay,  

Giáng Sinh 2013

13/11/201300:00:00(Xem: 5889)
Mừng một biến cố lịch sử xẩy ra trên hai ngàn năm trước, nhưng vẫn như mới xẩy ra hôm nào trong thời đại của chúng ta. Thật vậy, mỗi độ Giáng Sinh về, nhất là ở vùng trời Âu này, khi ta có dịp đi ngang qua một giáo đường, hay chính ngày lễ lớn, có dịp cùng với bạn hữu đi dự lễ Giáng Sinh vào tối 24-12, bạn sẽ được chứng kiến một cảnh ngộ rất thời thượng, một con người được sinh ra không phải ở trong một căn hộ ấm áp có gường, có nệm, có lò sưởi với những tiện nghi, mà là một hài nhì sinh ra trong cảnh nghèo hèn thiếu thốn mọi thứ, còn nơi sinh là hang của chuồng bò, lừa trú lạnh ban đêm ở nơi cánh đồng vắng nước Israel thủa trên hai ngàn năm trước. Vì các phòng trọ không còn chỗ trống. Xin mời bạn theo tôi tìm lại lai lịch biến cố này qua Thánh Sử Luca đoạn I từ câu 18 đến 25.

“Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính thư vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. Tất cả sự việc này đã xẩy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dậy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su”.

Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giê-su Hài Nhi.

Chúng ta nên đọc tiếp một đoạn nữa của Luca 2, từ câu 1 đến câu 6.

“Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn đắt Ít-ra-en dân ta sẽ ra đời”.

Qua hai đoạn tin mừng chúng ta đã biết được biến cố về lễ Giáng Sinh, một vị Thiên Chúa bởi trời mà xuống trần gian, trong hoàn cảnh gia đình ông Giu-se và bà Maria, một gia đình nghèo, ông thì làm nghề thợ mộc, bà thì lo việc nội trợ trong nhà. Nhân có cuộc làm lại sổ hộ khẩu của nhà Vua Hê-rô-đê thời bấy giờ, mà ông bà ở nơi khác, phải về quê hương của mình để khai sổ hộ khẩu; đường đi thì xa, không có xe cộ như thời bây giờ, phải đi bộ, mà bà thì có mang gần đến ngày sinh, nên ông phải cho bà ngồi trên lưng lừa và dong lừa đi. Về đến quê hương thì chiều đã xuống, các nhà trọ cho mướn để qua đêm đã không còn chỗ, ông bà đành phải ra ngoài cánh đồng vắng tìm đến nơi trú thân của loài vật về đêm để ở tạm. Nào ngờ, giờ sinh đã đến với bà trong hoàn cảnh ở giữa đồng vắng, không đèn, không hàng xóm, không một phương tiện liên lạc như điện thoại, và thời đó cũng không có xe cứu thương như thời nay.

Nhưng khi bà vừa hạ sinh hài nhi thì có tiếng hát của Thiên Thần ca mừng rằng:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”.

Lại có những người chăn giữ đàn vật ở đâu dó cũng đến tụ lại qùy gối bái chào hài nhi và những con vật trú qua đêm ở căn chòi lá cũng bu lại thở hơi ấm làm cho hài nhi bớt lạnh giá trong cảnh đêm đông.

Thiên Chúa từ trời cao khi muốn xuống thế làm người, đã chọn sinh ra trong cảnh ngộ thật nghèo khó. Nghèo khó đến nỗi không còn chỗ trọ, để trú chân qua đêm. Cũng có thể vì Ngài mặc lấy thân phận rất nghèo, cứ trông vẻ bề ngoài một người đàn ông dẫn theo bà vợ có bầu không biết sẽ sinh giờ nào, tìm quan trọ thì chủ quán ai cũng ngại, chưa kể những chủ quán giầu có, họ chỉ muốn cho mướn, cho trọ những người giầu, có tiền. Chính vì cái cảnh nghèo đó mà ông bà bị từ chối, nên đã phải tìm ra ngoài đồng, tìm vào trú chân trong những lán lá người ta che mưa gió cho loài vật trú qua đêm.

Cảnh giầu và nghèo là hai gia cấp muôn thủa thời nào cũng có. Từ thời lễ Giáng Sinh hơn hai ngàn năm trước, và trước nữa, cũng như cho đến ngày nay. Người giầu chẳng có bao nhiêu, tỷ phú nước nào cũng có nhưng chỉ đếm được bằng con số, không nhiều, số trăm thôi. Nhưng thống trị thế giới lại là giới tỷ phú, có tiền, có quyền, nhưng không phải là không có người nhận ra, nhiều người nghèo cũng biết. Do đó họ muốn đem lại công bình cho thế giới, cho mọi người, nhưng gặp thật nhiều trở ngại và khó khăn. Như một Tổng Thống siêu cường quốc muốn cho người dân có bảo hiểm sức khỏe nhưng chưa làm được, và bao đời tổng Thống nước Mỹ đã muốn làm. Giờ đến lượt tổng thống Obama nhưng cũng còn gặp muôn vàn khó khăn và chống đối, không hiểu rồi ông có thực hiện được hay không.

Là người công giáo, mặc nhiên thông cảm nỗi nghèo của người nghèo hơn những người khác. Nhất là mỗi độ Giáng Sinh về, do đó họ dễ dàng cảm nhận thân phận của người nghèo hơn ai hết, nên họ có mặt tích cực ở môi trường xã hội, chính trị trước những người khác dựa vào học thuyết xã hội công giáo:

“Trên thực tế, người ta có thể hành động, hoặc trong cuộc sống cá nhân, gia đình, hoặc trong cách sinh hoạt cộng đồng. Trong lãnh vực tư, nhiệm vụ căn bản là sống và cư xử theo lời dậy Phúc âm, và đừng lùi bước trước những hy sinh và các đau khổ mà nhân đức Ki-tô giáo đòi hỏi. Hơn nữa, tất cả phải yêu mến Giáo hội như là mẹ chung, tuân lời, đề cao danh dự, bảo vệ quyền lợi và lo sao để những người dưới trách niệm của mình biết kính nể và mến yêu Giáo hội trong tình thảo ngay”. Trong lãnh vực công cộng, người công giáo cũng cần phải tham gia vào công việc hành chánh địa phương một cách khôn ngoan, nhất là nỗ lực thúc giục chính quyền cung ứng một nền giáo dục tôn giáo và đạo đức cho giới trẻ, một điều mà Ki-tô hữu rất cần, và cũng là lợi ích sinh tử của xã hội. Một cách chung, người công giáo nên được khuyến khích để nới rộng hoạt động của mình vượt ra ngoài cả những giới hạn còn chật hẹp này để dấn thân vào các phần vụ quan trọng hơn của đất nước. Chúng tôi nói “một cách chung”, vì ở đây chúng tôi muốn nói đến tất cả các nước. Tuy thế, cũng có khi, vì những lý do quan trọng và chính đáng, tham gia vào chính sự và nhận những chức vụ có thể không thích hợp. Nhưng luật chung, như chúng tôi đã nêu trên đây, từ chối dấn thân vào việc nước có thể đáng trách cứ như là chểnh mảng, thờ ơ với công ích, hơn thế nữa, giáo lý mà người công giáo tuyên xưng lại buộc họ khải ngay chính chu toàn bổn phận ấy. Và nếu họ trốn tránh việc nầy, thì giềng mối đất nước sẽ dễ dàng rơi vào tay những kẻ có những ý kiến không mang lại nhiều hy vọng tốt đẹp cho đất nước. Lúc ấy dù Ki-tô hữu có muốn hay không, thì kẻ thù của Giáo hội sẽ có toàn quyền và người bênh vực Giáo hội thì ở bên lề. Do vậy, người công giáo hẳn có lý do chính đáng để dấn thân vào cuộc sống chính trị; vì họ làm và phải làm chính trị, không phải để tán đồng những điều đáng trách cứ đang hiện hữu có trong các cơ chế chính trị, nhưng để hết sức mình khai triển công ích chân thật ngay trong các định chế nầy bằng cách cố đưa vào trong guồng máy chính quyền nền đạo đức và ảnh hưởng của đạo công giáo, như nhựa sống và như dòng máu cứu độ”.(Trích từ Một cái nhìn mới về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo từ tủ sách Muối Đất Định Hướng xuất bản năm 2000 nơi trang 28 và 29).

Là người tin vào Chúa, phục tùng giáo hội của Ngài qua Đức Giáo Hoàng nên tích cực tham gia vào các việc công ích, không thể thờ ơ nghĩ rằng đã có kẻ khác làm, chúng ta không cần tham gia, không cần làm. Thật vậy, nếu việc như ra ứng cử vào các hội đồng thị xã, ứng cử vào tòa nhà lập pháp như quốc hội hạ viện, thượng viện, người công giáo thờ ơ không tham gia, không có mặt thì làm cách nào góp tiếng nói để sản sinh ra những luật lệ, mà luật lệ trong những quốc gia pháp trị được áp dụng để đem lại công bằng cho hết mọi người, nhất là những người nghèo. Nếu những người công nhân làm việc trong các nhà máy, xưởng thợ mà không có công đoàn để bảo vệ những quyền lợi như có đồng lương đủ nuôi sống gia đình, con cái được cắp sách đến trường, có bảo hiểm sức khỏe, căn hộ đủ ấm vào mùa đông thì làm sao người công nhân có đủ tâm trí tập trung vào sản xuất cho ra những sản phẩm cho nhà máy. Cái nghèo của thời trước Giáng Sinh và của ngày hôm nay cũng không khác nhau.

Nhưng mỗi người là một chủ thể, nhân loại càng đông thì càng có nhiều chủ thể. Do vậy, người tham gia vào guồng máy công quyền, nhất là những người trực tiếp làm ra những luật lệ như dân biểu hạ nghị viện, dân biểu thượng viện, cần phải cân nhắc thật kỹ để giảm thiểu đến mức tối đa những cá nhân không tôn trọng những lợi ích chung liên quan đến tập thể như: trộm cắp, phá hoại những phương tiện sản xuất, nhà máy, họ chỉ mưu cầu lợi ích riêng mà không quan tâm đến lợi ích chung của kẻ khác, của cả một tập thể lớn. Người làm luật phải tìm cách giảm thiểu được những cá nhân thiển cận này để công ích được sáng, hầu căn nhà chung của thế giới không còn cảnh bất công và nghèo khó.

Nhờ sự dấn thân của những người mang tầm nhìn của học thuyết xã hội của giáo hội mà một số rất nhỏ quốc gia trên thế giới, khoảng 10 trong 224 nước hiện giờ trên thế giới, có được những luật căn bản về “an sinh xã hội” như một số nước ở vùng Bắc Âu hay như Hòa Lan, Thụy Sĩ; có một tổ chức xã hội thật lý tưởng đúng như giấc mơ của Liên Hiệp Quốc từng mơ ước là: mỗi người có lương thực hành ngày, có nhà ở và được sưởi ấm về mùa đông, con cái được đến trường, mọi người đều có bảo hiểm sức khỏe, các dịch vụ đều bình đẳng khi đến bác sĩ nhà, khi vào bệnh viện, và khi chết được an táng cách bình thường. Được như vậy, là do mọi người không thờ ơ với việc chung, nhất là thờ ơ với những sinh hoạt chính trị.

Nhìn vào máng cỏ, nơi Hài nhi Giê-su được sinh ra, cảnh khó nghèo của trên hai ngàn năm trước không khác là bao với xã hội hôm nay, cảnh giầu nghèo vẫn còn, một phần cũng do chúng ta còn thờ ơ, vẫn lạnh lùng với người bên cạnh và hơn nữa thật thờ ơ khi không chịu góp sức vào những công tác chung của xã hội, chung lòng với người bên cạnh góp công sức để kiến tạo một xã hội công bằng, huynh đệ và yêu thương./-

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.