Hôm nay,  

Học Giả, Dịch Giả Olgar Dror Viết Về Nhã Ca & ‘Giải Khăn Sô Cho Huế’ (Kỳ 8)

12/02/201519:15:00(Xem: 12105)

Nguyên tác Anh ngữ: Olga Dror
Bản dịch Việt ngữ: Huỳnh Kim Quang

image002Như toàn văn lịch sinh hoạt tại Berleley đã phổ biến, Thứ Tư 25 tháng Hai 2015, nhằm ngày mùng bảy Tết Ất Mùi, sách “Mourning Headband for Huế” --từ nguyên tác tiếng Việt “Giải Khăn Sô Cho Huế” của Nhã Ca -- chính thức thành đề tài thảo luận tại Đại Học Berkeley, với hai diễn giả chính là Nhã Ca, người viết, và Olga Dror, người dịch.
February 2015
Mourning Headband for Hue
Reading - Literary | February 25 | 4-6 p.m. | 180 Doe Library
Featured Speaker: Nha Ca, writer
Speaker: Olga Dror, Associate Professor of History, Texas A & M University
Sponsor: Center for Southeast Asia Studies
This book event will highlight the new English-language translation of prominent Vietnamese writer Nha Ca's memoir Giai khan so co Hue, which was first published in 1969 as an eyewitness chronicle of the suffering of Vietnamese civilians caught in the city of Hue during the 1968 Tet offensive.
This event will include remarks on the translation by Prof. Olga Dror, the book's translator [in English], and commentary about the book itself by Nha Ca [in Vietnamese, with English language translation provided]
Nha Ca was born in Hue, Vietnam in 1939, but moved to Saigon after her marriage where she established a literary career. After the fall of South Vietnam in 1975, Nha Ca was incarcerated by the new national government. She was allowed to emigrate to the West with her family in 1989 and now lives in southern California.
Olga Dror was born in the Soviet Union and received an M.A. in Oriental Studies from Leningrad State University in 1987. She emigrated to Israel in 1989, and later moved to the U.S. to study Vietnamese history at Cornell University. She received her Ph.D. from Cornell in 2003, and has been a member of Texas A&M's faculty since 2004. Event Contact: [email protected], 510-642-3609; 322 Wheeler Hall. Berkeley CA 94720 :: 510.642.3467 UC Berkeley.
Tuy giỏi nhiều ngôn ngữ và từng trực tiếp dịch bút ký truyền giáo ở Việt Nam của Linh Mục Adriano di Santa Thecla từ tiếng La Tinh, hay bút ký chạy loạn Huế Mậu Thân của Nhã Ca từ Việt ngữ sang Anh ngữ, công việc chính của Olga Dror là nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Việt Nam tại Texas A&M University. Đó là lý do trong ấn bản Mourning Headband for Hue, ngoài phần dịch thuật, Olga Dror còn có thêm “Translator’s Introduction”, (Giới Thiệu của Dịch Giả) bổ cứu công phu, phân tích tỉ mỉ các quan điểm về Chiến Tranh Việt Nam và trận chiến Huế. Sau đây là bản dịch bài viết công phu của bà về “Giải Khăn Sô cho Huế” và tác giả Nhã Ca.

image007Tết Mậu Thân và Giải Khăn Sô cho Huế Trong Bối Cảnh Việt Nam

Tin tôi đi, thật không dễ gì giải thích hợp lý việc dẫm đạp vườn nho nơi chất chứa những trái nho thịnh nộ.
(Kurt Vonnegut, Trận Chiến Ác Liệt Cuối Cùng Trong Hồi Ức)

Có nhiều cách khác nhau để ứng phó với thảm kịch: Có thể thảo luận về nó và qua việc thảo luận này bắt đầu một tiến trình trị liệu, hay có thể giả vờ xem như nó chưa bao giờ xảy ra và quên hẳn nó đi, cứ cho là nếu nó không được bàn tới thì nó sẽ biến mất. Có nhiều thí dụ điển hình về cả hai phương thức này trong lịch sử nhân loại trong việc đối phó với những thảm kịch thuộc nhiều phạm vi khác nhau.
Đã từng có sự sẵn lòng và cởi mở tại Đức để thảo luận và phân tích các chính sách và thực tế của Đức trước và trong Thế Chiến Thứ Hai đã dẫn đến những đau khổ không thể tưởng tượng được và những cái chết của hàng triệu người. Đã từng có nhiều sự chống đối và không sẵn lòng để làm điều tương tự như thế tại Nhật Bản, và điều này đã tạo ra nhiều khó khăn và căng thẳng trong mối quan hệ giữa Nhật Bản và nhiều nước Á Châu khác, đặc biệt với Trung Quốc và Đại Hàn. Các cơ quan thẩm quyền quân đội Hoa Kỳ đã nỗ lực quét sạch thảm kịch Mỹ Lai năm 1968, và nếu họ đã thành công thì không bao giờ trở thành trọng điểm mà người Mỹ điếm xỉa tới nữa.
Cần đến năm mươi năm cho chính quyền Sô Viết nhận thức điều gì đã xảy ra vào năm 1940 tại Katyn Forest, khu vực rừng núi gần làng Gneizdovo ngoại ô thành phố Smolensk, nơi Stalin ra lệnh cho Bộ Nội Vụ bắn chết và chôn hàng ngàn quân nhân và thường dân Ba Lan đã bị bỏ tù khi Liên Bang Sô Viết xâm chiếm Ba Lan vào tháng 9 năm 1939 trong liên minh với Đức Quốc Xã. Những người Sô Viết đổ tội người Đức tàn ác cho mãi đến năm 1990, sau khi tổng thống Mikhail Gorbachev thừa nhận tội lỗi của Sô Viết và, kết quả là, các tài liệu mật đã được công khai để giúp hình ảnh đầy đủ hơn về những gì đã xảy ra ở đó. Gorbachev nói rằng sự thật những gì xảy ra trong rừng Katyn là một trong những “gút thắt lịch sử” gây phức tạp các mối quan hệ giữa Sô Viết và Ba Lan.(71)
Hoàn cảnh tại Việt Nam thì còn nhiều phức tạp hơn bởi vì các sự kiện tại Huế phô bày cho thấy không những chỉ chống lại bối cảnh chiến tranh giữa quân đội Cộng Sản Việt Nam và Hoa Kỳ mà cũng còn trong bối cảnh của nội chiến với các thế lực đang tranh giành tại Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam. Từ đó, một trong những bên của Việt Nam (Cộng Sản) chiến thắng; còn bên kia (những người chống Cộng tại Miền Nam) thua cuộc. Cái giá mà hai bên đã phải trả rất lớn. Cộng Sản bị tổn hại vì sự phá hủy kinh tế và hạ tầng cơ sở tại miền Bắc do bom đạn và sau đó bị vướng vào một cuộc chiến lâu dài và tàn phá khác như là một con tốt trong sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Liên Sô để thống trị Đông Dương sau khi Mỹ rút ra.
Đối với những người chống Cộng, sự tổn thất tiếp tục kéo dài sau chiến tranh qua các trại tù cải tạo, các chính sách kỳ thị trong giáo dục và nghề nghiệp, hay bỏ nước ra đi bằng thuyền từ nước Việt Nam thống nhất với sự đánh mất quê hương, nếu sự vượt biên của họ thành công, hay với việc bỏ mạng trên biển, bị hải tặc tấn công, hay những điều kiện nghiệt ngã, nếu vượt biên của họ thất bại. Hiện nay hoàn cảnh có vẻ đã ổn định với một nước Việt Nam và hàng triệu người Việt tại hải ngoại. Khả năng của sự hòa giải hay ít nhất là việc trị liệu một phần nào đó vết thương là có thể có đối với nhiều người Việt, nhưng không thể không có sự thảo luận về chiến tranh nói chung và về Tết Mậu Thân tại Huế nói riêng mà có thể thông qua được. Nếu [là vết thương] cực kỳ đau đớn, thì điều đó [sự hòa giải] chỉ có thể trở thành hiện thực không phải qua sự im lặng mà qua sự cởi mở trong việc thảo luận về lịch sử và diễn trình của chiến tranh. Trong cuộc thảo luận như thế, Giải Khăn Sô Cho Huế và quan điểm được trình bày trong đó sẽ trở thành một trong những tiếng nói.

Nhà nước miền Bắc

Khi các sự kiện tại Huế được phơi bày, chính quyền Việt Nam tại Miền Bắc và lực lượng Cộng Sản tại Miền Nam đã không cho đó là thảm kịch.
Ngày 2 tháng 2 năm 1968, chỉ vài ngày sau khi bắt đầu Trận Tấn Công Tết, bộ chỉ huy các Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam đã công bố sự thành công của lực lượng Cộng Sản: “Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng tỉnh Thừa Thiên-Huế ra đời để đảm nhận trách nhiệm vinh quang của chính quyền nhân dân tại tỉnh và thành phố.”(72)


Ngày 3 tháng 3 năm 1968, sau khi Cộng Sản đã bại trận tại Huế, Ủy Ban Trung Ương của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam vẫn còn tuyên bố chiến thắng kẻ thù, nói rằng đã giáng trả thêm thiệt hại nặng nề cho Mỹ và quân lực và các căn cứ của chính quyền Miền Nam, lực lượng Cộng Sản cũng “đã giết nhiều tên địch, diệt sạch những kẻ ác ôn, đặc biệt giải phóng toàn đất nước, thiết lập chính quyền cách mạng, và mở rộng sự đoàn kết dân tộc để chống Mỹ và bảo vệ tổ quốc.” Tài liệu nói trên cho biết tiếp rằng: “Thành Phố Huế đã chứng tỏ một thí dụ sáng chói của tinh thần và khả năng thực hiện trận tấn công chống lại kẻ thù, với sức chịu đựng và ý thức mục đích, đánh bại tất cả những trận phản công của kẻ thù, áp dụng một cách sáng tạo các chiến thuật chiến tranh nhân dân trong thành phố để chống lại kẻ thù, kết hợp tuyệt vời giữa tấn công quân sự với tấn công chính trị.”(73)
Ngày 19 tháng 3,1968, bộ chỉ huy Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam củng cố thêm quan điểm này, bằng cách tuyên dương không chỉ cử chỉ anh hùng và thành công của lực lượng Cộng Sản trong chiến lược mà cũng là "tính cách phong phú trong sáng tạo và mưu trí” trong việc áp dụng các chiến lược đó.(74) Nhà xuất bản quốc doanh của chính quyền tại Hà Nội đã xuất bản những tài liệu này vào tháng 4 năm 1968, như thế là đóng dấu chấp thuận chúng.
Ngày 27 tháng 4 năm 1969, theo sau hàng loạt những khám phá các mồ chôn tập thể tại Huế và những vùng phụ cận, Đài Phát Thanh Hà Nội đã phản ứng: “Để che đậy hành động tàn bạo của chúng, chính phủ bù nhìn tại Huế đang đóng trò khôi hài dựng lên cái gọi là ủy ban để tìm kiếm và mai táng những tay sai côn đồ những người mang nợ máu với đồng bào Thừa Thiên-Huế và những kẻ bị quân đội và người dân miền nam thủ tiêu vào đầu mùa xuân Mậu Thân.”(75) Trong tuyên bố này, cũng như một tuyên bố từ lực lượng Cộng Sản miền nam được trích ở trên, những thừa nhận công khai về các vụ giết ít nhất một số người nhưng không phản ảnh bất cứ thiện chí nào của bên Cộng Sản để gánh trách nhiệm đối với những hành vi này; ngược lại, Cộng Sản đã miêu tả các vụ giết người như là hành động cần thiết để chống lại “những kẻ thù sát nhân,” “những kẻ ác ôn,” và “những tay sai côn đồ.”
Kể từ khi chiến tranh kết thúc, chính quyền [cộng sản] Việt Nam vẫn chưa công nhận, hay ít nhất thảo luận cởi mở, về những sự kiện của Tết Mậu Thân tại Huế. Vào đầu thập niên 1980s, Stanley Karnow phỏng vấn Tướng Trần Độ, một trong những kiến trúc sư cao cấp của Cộng Sản đối với Trận Tấn Công Tết, đã thẳng thừng phủ nhận rằng những tàn ác tại Huế đã từng xảy ra, cho rằng những phim và hình ảnh của các thi thể là “giả tạo.”(76)


Những Quan Điểm Cá Nhân từ phía Cộng Sản: Trường hợp Trương Như Tảng và Bùi Tín

Hai cán bộ cao cấp từ Bắc và Nam Việt Nam, trong khi không trực tiếp tham dự vào các biến cố tại Huế, đã đưa ra những cái nhìn của họ về chúng. Trước hết là Trương Như Tảng, thành viên sáng lập của phong trào Cộng Sản tại Miền Nam và cựu bộ trưởng tư pháp của Chính Quyền Cách Mạng Lâm Thời, chính quyền bí mật tại Nam Việt Nam được thành lập vào năm 1969 để chống lại chính quyền Sài Gòn và bao gồm chủ yếu các thành viên của Mặt Trận Giải Phóng, Việt Cộng. Đã vỡ mộng với các chính sách của Cộng Sản sau khi Sài Gòn thất thủ và thống nhất đất nước, Trương Như Tảng trốn thoát khỏi nước bằng thuyền vào năm 1978 và hiện đang cư ngụ tại Pháp. Trong hồi ký được viết lúc lưu vong, Trương Như Tảng mô tả cuộc đối thoại của ông với chủ tịch Chính Quyền Cách Mạng Lâm Thời, Huỳnh Tấn Phát. Theo Trương Như Tảng, Huỳnh Tấn Phát đã bày tỏ sự đau buồn và thất vọng về những gì đã xảy ra và giải thích rằng sự trừng phạt tại Huế là hoàn toàn không thích đáng, mà kết quả là trong các vụ bắn giết người bừa bãi bởi những tên lính trẻ cuồng tín và các người dân địa phương hận thù là những người ủng hộ cách mạng trong những trường hợp khác nhau đã nắm công lý trong tay họ. Huỳnh Tấn Phát phát biểu rằng không có chính sách hay chỉ thị từ Mặt Trận để thực hiện bất cứ vụ thảm sát nào: “Nó chỉ đơn giản là một trong những thảm kịch tự phát khủng khiếp chắc chắn đi cùng với chiến tranh.” Khi Trương Như Tảng nghe lời giải thích này, ông đã không thấy “thỏa mãn chút nào cả,” nhưng ông đã “không tiếp tục đề cập thêm vấn đề này.”(77)
Không giống Trương Như Tảng là người Miền Nam, Đại Tá Bùi Tín phục vụ trong ban tham mưu của Quân Đội Bắc Việt, người mà trong thời điểm Sài Gòn thất thủ vào năm 1975 đã tiếp nhận sự đầu hàng từ vị tổng thống sau cùng của Nam Việt Nam, Dương Văn Minh. Sau chiến tranh, Bùi Tín làm việc với chức vụ phó tổng biên tập của nhật báo chính thức của Đảng Cộng Sản là báo Nhân Dân. Cũng vỡ mộng với nhà cầm quyền Cộng Sản, ông đã xin và được nhận tị nạn chính trị tại Pháp khi tham dự hội nghị được tổ chức bởi tờ báo Pháp L’Humanité vào năm 1990.
Từ hồi ký của Bùi Tín được xuất bản vào năm 1993, người đọc có thể suy luận ra quan điểm của Bùi Tín là gì, mà đã tạo thành 3 yếu tố đóng góp chính của thảm kịch tại Huế. Yếu tố thứ nhất xuất phát từ sự thất bại của lực lượng Việt Cộng. Theo ông, “Lúc đó trong bầu không khí căng thẳng tràn ngập thành phố [Huế], chứng kiến người dân không nổi dậy [chống lại chính quyền Miền Nam], nhưng trái lại bỏ trốn, với rất ít người chào đón [lực lượng Cộng Sản], để tiếp tay quân đội [Cộng Sản], là lý do khi quân đội [Cộng Sản] chiếm thành phố, họ đã có sẵn thành kiến đối với người dân Huế.”(78)
Yếu tố thứ hai được xem như là sự tổn thất của Cộng Sản tại Huế. Như Bùi Tín giải thích, trong lúc rút lui, quân đội muốn loại trừ các nhân chứng bởi vì họ có thể nằm trong vị trí tiết lộ tin tức mà quân đội [Cộng Sản] muốn giữ bí mật.

(Kỳ tới: Lê Minh, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân)


Ghi Chú

(71) Esther B. Fein, “Upheaval in the East [Biến Động Miền Đông], Gorbachev Hands Over Katyn Papers [Gorbachev Bàn Giao Hồ Sơ Katyn], New York Times, ngày 14 tháng 4 năm 1990, trang 1.
(72) Bộ Chỉ Huy Các Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, “Thông cáo đặc biệt số 3 của Bộ Chỉ Huy Các Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, ngày 2 tháng 2 năm 1968, Tiến công đồng loạt, nổi dậy đều khắp, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược! (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1968), trang 48.
(73) Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, “Quyết định của Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam tuyên dương công trạng quân và dân toàn miền Nam trong những ngày tiến công toàn diện đầu xuân 1968”, ngày 3 tháng 3 năm 1968, như sách dẫn trên, trang 60.
(74) Bộ Chỉ Huy Các Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, “Thông báo đặc biệt số 4 của Bộ Chỉ Huy Các Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam,” ngày 19 tháng 3 năm 1968, sách dẫn trên, trang 79.
(75) Hồ Sơ Quốc Hội, ngày 19 tháng 5 năm 1970, trang 16079.
(76) Karnow, Vietnam, trang 530.
(77) Trương Như Tảng, A Vietcong Memoir: An Inside Account of the Vietnam War and Its Aftermath [Hồi Ký Của Một Người Việt Cộng: Miêu Tả Nội Bộ Của Chiến Tranh Việt Nam và Hậu Quả Của Nó] (Vintage, New York, 1986), trang 154.
(78) Thành Tín, Mặt Thật: Hồi Ký Chính Trị Của Bùi Tín (Nxb Saigon Press, Irvine, CA, 1993), trang 184-85.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.