Hôm nay,  

Học Giả, Dịch Giả Olgar Dror Viết Về Nhã Ca & ‘Giải Khăn Sô Cho Huế’ (Kỳ 9)

13/02/201518:58:00(Xem: 12991)

Nguyên tác Anh ngữ: Olga Dror
Bản dịch Việt ngữ: Huỳnh Kim Quang

image002Như toàn văn lịch sinh hoạt tại Berleley đã phổ biến, Thứ Tư 25 tháng Hai 2015, nhằm ngày mùng bảy Tết Ất Mùi, sách “Mourning Headband for Huế” --từ nguyên tác tiếng Việt “Giải Khăn Sô Cho Huế” của Nhã Ca -- chính thức thành đề tài thảo luận tại Đại Học Berkeley, với hai diễn giả chính là Nhã Ca, người viết, và Olga Dror, người dịch.
February 2015
Mourning Headband for Hue
Reading - Literary | February 25 | 4-6 p.m. | 180 Doe Library
Featured Speaker: Nha Ca, writer
Speaker: Olga Dror, Associate Professor of History, Texas A & M University
Sponsor: Center for Southeast Asia Studies
This book event will highlight the new English-language translation of prominent Vietnamese writer Nha Ca's memoir Giai khan so co Hue, which was first published in 1969 as an eyewitness chronicle of the suffering of Vietnamese civilians caught in the city of Hue during the 1968 Tet offensive.
This event will include remarks on the translation by Prof. Olga Dror, the book's translator [in English], and commentary about the book itself by Nha Ca [in Vietnamese, with English language translation provided]
Nha Ca was born in Hue, Vietnam in 1939, but moved to Saigon after her marriage where she established a literary career. After the fall of South Vietnam in 1975, Nha Ca was incarcerated by the new national government. She was allowed to emigrate to the West with her family in 1989 and now lives in southern California.
Olga Dror was born in the Soviet Union and received an M.A. in Oriental Studies from Leningrad State University in 1987. She emigrated to Israel in 1989, and later moved to the U.S. to study Vietnamese history at Cornell University. She received her Ph.D. from Cornell in 2003, and has been a member of Texas A&M's faculty since 2004. Event Contact: [email protected], 510-642-3609; 322 Wheeler Hall. Berkeley CA 94720 :: 510.642.3467 UC Berkeley.
Tuy giỏi nhiều ngôn ngữ và từng trực tiếp dịch bút ký truyền giáo ở Việt Nam của Linh Mục Adriano di Santa Thecla từ tiếng La Tinh, hay bút ký chạy loạn Huế Mậu Thân của Nhã Ca từ Việt ngữ sang Anh ngữ, công việc chính của Olga Dror là nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Việt Nam tại Texas A&M University. Đó là lý do trong ấn bản Mourning Headband for Hue, ngoài phần dịch thuật, Olga Dror còn có thêm “Translator’s Introduction”, (Giới Thiệu của Dịch Giả) bổ cứu công phu, phân tích tỉ mỉ các quan điểm về Chiến Tranh Việt Nam và trận chiến Huế. Sau đây là bản dịch bài viết công phu của bà về “Giải Khăn Sô cho Huế” và tác giả Nhã Ca.

image007Những Quan Điểm Cá Nhân từ phía Cộng Sản: Trường hợp Bùi Tín

Bùi Tín nhìn thấy nguyên do thứ ba trong hệ thống giáo dục Cộng Sản hiện hữu lúc bấy giờ, mà, theo quan điểm của ông, bắt rễ trong hận thù. “Giáo dục thù hận, cần trong thời chiến tranh, được gia tăng tới mức cực đoan, [và] những huấn thị được lan truyền rộng rãi rằng ‘những tay sai giết người,’ [và những kẻ khác] là những kẻ thù nguy hiểm nhất, nhất định không được để cho chúng trốn thoát.” Như Bùi Tín xác định, hệ thống giáo dục như thế đã tạo ra căn bản cho cuộc tàn sát thảm khốc.(79)
Như Huỳnh Tấn Phát, người được Trương Như Tảng nói đến, Bùi Tín cho thấy rằng không có lệnh hành hình được đưa ra trước. Dù cả Huỳnh Tấn Phát, như được Trương Như Tảng cho biết, và Bùi Tín đều phủ nhận sự có mặt của lệnh từ thẩm quyền cao nhất trước cuộc tấn công, họ lại có cách giải thích khác nhau về các vụ giết người -- người trước [Trương Như Tảng] cho rằng tính tự phát từ một người lính bình thường, trong khi người sau [Bùi Tín] thì cho rằng khả năng của mệnh lệnh như thế là từ một người không rõ vào thời điểm rút lui của lực lượng Cộng Sản. Cả hai đều không nói đến vấn đề những vụ giết người được thực hiện rất lâu trước khi [Cộng Sản] bắt đầu rút lui.
Bùi Tín kể rằng quá trình ra quyết định của chính quyền và Đảng Cộng Sản không bao giờ được công khai, nhưng ông cho rằng đảng và chính quyền đã không có nỗ lực đáng kể qua việc điều tra hay trừng phạt sau đó: “Các lãnh đạo của Đảng Cộng Sản có khuynh hướng xem ‘sự chệch hướng’ nhẹ như là, chẳng hạn, [đã xảy ra] trong thời Cải Cách Ruộng Đất và các chiến dịch chống tôn giáo” khi mà con người và các vấn đề “tất cả đều được xử lý đại khái.”(80)
Bùi Tín nêu tên 3 người bị “phê bình” đối với thảm kịch tại Huế. Đại Tướng Trần Văn Quang, tư lệnh kiêm chính ủy của khu vực nơi mà Huế nằm trong đó, bị phê bình nhưng vẫn tiếp tục binh nghiệp và vào năm 1981 được bổ nhiệm là thứ trưởng Bộ Quốc Phòng và được thăng cấp thượng tướng vào năm 1984. Thiếu tướng Lê Chưởng, chính ủy của quân đội Việt Cộng của Mặt Trận, dựa trên sự phê bình đã được thuyên chuyển làm thứ trưởng Bộ Giáo Dục. Ông đã chết vào năm 1973 trong một tai nạn xe. Người thứ ba bị phê bình, theo Bùi Tín, là Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch quân sự bên tả ngạn Sông Hương. Theo Bùi Tín, Đại tá Lê Minh đã chết vì bệnh sau đó.(81) Bùi Tín không nói rõ thời gian Lê Minh chết, nhưng Lê Minh chắc chắn còn sống lâu sau Tết Mậu Thân. Hơn nữa, năm 1987 ông [Lê Minh] đã viết một bài cho số báo tưởng niệm, Huế, Xuân 68, được xuất bản trong dịp kỷ niệm 20 năm Tết Mậu Thân tại Huế vào năm 1988, 5 năm sau cuốn sách của Bùi Tín được xuất bản.

Trường hợp Lê Minh

Bài viết của Lê Minh trong báo Huế, Xuân 68, nổi bật với những bài viết được viết bởi các chính trị gia và những người tham dự vào các sự kiện. Một cách nào đó nó miêu tả sự chệch hướng đáng kể từ sự xử lý của chính quyền đối với thảm kịch. Lê Minh viết rằng những tàn ác là một phần không thể tránh được của chiến tranh. Ông ca ngợi hiệu xuất của lực lượng Cộng Sản tại Huế trong thời gian Tết Mậu Thân: “Cần nói rằng sau khi chúng tôi rút lên rừng, nếu có điều gì đó còn bám rễ sâu trong tâm trí của người dân Huế, thì trước hết, đó là việc nâng cao hình ảnh của ‘bộ đội bác Hồ [Hồ Chí Minh].’” Nhưng rồi ông đi lạc vào chủ đề các vụ giết người tại Huế: “Khi chúng tôi rút lui, kẻ thù đã phản công chúng tôi với sức mạnh ghê gớm.” Ông thừa nhận rằng có một số trường hợp cụ thể những người thuộc ngụy quân và ngụy quyền đã bị bắt và những người chống Cộng Sản. “Trong các tình thế này, một vài anh chị em của khối quân đội của chúng tôi (quân đội, du kích, tự vệ, vân vân) đã không thể tránh được những hành động nông cạn [tác giả viết chữ nghiêng] trong trường hợp này. Chúng tôi ở trong tình thế cực kỳ khó khăn mà chúng tôi không thể kiểm soát hết những hành động của từng tay súng và từng du kích…gồm cả một số chủ lực địa phương, trong những phản ứng của họ đối với các sự kiện.”


Thực tế, trọng điểm của ông vẫn còn hẹp – ông đã không đề cập đến nhiều nạn nhân, nhưng từ sự mô tả của ông chúng có vẻ chẳng quan trọng gì và hạn cục đối với các giới chức quân đội và chính quyền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ông cho thấy một chừng mức nào đó của sự phạm tội được cho là do lực lượng Cộng Sản, không phân biệt họ là người bắc hay người nam. Thêm nữa, ông thực sự cho rằng trách nhiệm của chính ông đối với các hành động của lực lượng Cộng Sản như là người chỉ huy của những lực lượng đó. Ông kết luận bằng một câu còn ấn tượng hơn: “Nhiệm vụ hiện nay của cách mạng là đưa ra ánh sáng sự bất công gây đau khổ cho các gia đình và những trẻ em của những người đã chết trong hoàn cảnh đó khi pháp luật cách mạng không bao giờ cố tình đẩy họ vào chỗ chết.”(82)
Bài viết của ông có ý nghĩa đặc biệt bởi vì, không giống Trương Như Tảng và Bùi Tín, những người đã sống ngoài Việt Nam và sách của họ được xuất bản tại Hoa Kỳ sau bài viết của Lê Minh, được xuất bản trong Việt Nam. Thật khó tưởng tượng rằng nó là tác phẩm “giả tạo” và rằng nó đã không đi qua quá trình kiểm duyệt thường xuyên. Có thể bởi vì cuốn sách được xuất bản tại Huế, cách xa quyền lực trung ương tại Hà Hội, nên sự kiểm duyệt không khắt khe. So với một tuyển tập có tiêu đề tương tự, Mậu Thân 68, được xuất bản tại Hà Nội bởi Ban Tuyên Truyền và Giáo Dục Tư Tưởng Trung Ương cùng thời điểm và cùng nói về một biến cố, đánh giá cao sự thành công của Cộng Sản ở thời điểm đó và thậm chí không đề cập gì tới Huế.(83) Tuy nhiên, có vẻ như rằng với sự có mặt của sự kiện đổi mới vào năm 1986, tương tự với sự cải tổ của Sô Viết, quốc gia đã trải qua hàng loạt tác động mãnh liệt về kinh tế và tác động ít mãnh mẽ hơn nhưng vẫn là những thay đổi chính trị quan trọng. Sự thay đổi sau cho phép hay được mong đợi cho phép vào thời điểm đó một mức độ tự do ngôn luận lớn hơn trước đó. Tôi nghĩ rằng nếu bài viết của Lê Minh được chính quyền đồng ý, có lẽ nó là bước mở ra khả năng thảo luận nhiều hơn nữa. Giả thuyết của tôi được hậu thuẫn bởi sự kiện là bài viết của Lê Minh được đề cập bởi Nguyễn Văn Diệu, là cán bộ liên lạc nước ngoài của Đảng Cộng Sản, tới ký giả của báo the Washington Post là Keith Richburg, người đề cập nó trong bài viết của ông “Việt Nam Thừa Nhận ‘Sai Lầm’ tại Huế,” được xuất bản năm 1988.(84)
Trong khi tôi không rõ chính quyền Việt Nam đã có làm gì đối với điều mà Lê Minh nói tới như là “việc đưa ra ánh sáng sự bất công đau khổ,” sau khi xuất bản bài báo, sự xuất hiện tiếng nói của ông không chỉ xác định sự kiện các vụ giết người mà cũng cho thấy rằng trong số những người chiến đấu bên phía Cộng Sản, có người cảm thấy và/hay nói lên tội lỗi đối với thảm kịch tại Huế.

Trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường

Mười năm sau bài viết của Lê Minh, vào năm 1997, một người khác đi xa hơn Lê Minh trong sự đánh giá của ông đối với những vụ giết người tại Huế: Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người dân Huế mà trong thời gian Tết là một trong những lãnh đạo của lực lượng Cộng Sản tại miền Nam. Ông được cho là có liên can trực tiếp đến các vụ giết người trong tác phẩm của Vennema và được cho là liên can gián tiếp trong “Giải Khăn Sô Cho Huế.”
Qua tác phẩm của ông chúng ta có thể thấy sự thay đổi quyết liệt trong suy xét của ông về thảm kịch Huế. Năm 1971 Hoàng Phủ Ngọc Tường viết cuốn sách “Ngôi Sao Trên Đỉnh Phu Văn Lâu: Biên Niên Sử.” Phú Văn Lâu là một tòa lầu cao trong Thành Nội Huế. Tựa đề cuốn sách cho thấy thời gian và nội dụng được mô tả trong đó -- khoảng thời gian Cộng Sản kiểm soát Thành khi lá cờ một sao của Cộng Sản tung bay trên đỉnh của tòa lầu Phu Văn Lâu. Ngày tháng ở cuối cuốn sách chỉ ra rằng nó được viết vào năm 1969; tuy nhiên, nó được Nhà Xuất Bản Giải Phóng ấn hành vào năm 1971. Trong khi chính quyền Bắc Việt và sau đó là chính quyền Việt Nam thống nhất cho rằng nhà xuất bản này ở miền Nam, sự thực thì nó ở tại Hà Nội.(85) Với nhà xuất bản tại miền Bắc được kiểm soát bởi chính quyền, thì bảo đảm để kết luận rằng chính quyền miền bắc biết rõ về cuốn sách này.
Không giống “Giải Khăn Sô Cho Huế,” không có gì trong cuốn sách trái ý muốn đường lối của đảng về các sự kiện tại Huế. Biên niên sử của Hoàng Phủ Ngọc Tường tập trung vào những người Mỹ chiến đấu (quân đội Nam Hàn cũng được nhắc đến nhiều lần), vào sự nhiệt tình của quần chúng Huế trong việc đón tiếp lực lượng Cộng Sản sau khi sống dưới chính quyền Mỹ Ngụy, và vào mối quan hệ tốt giữa dân chúng và lực lượng Cộng Sản. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng mô tả một số người rời bỏ thành phố vào năm 1966 và trở lại với lực lượng Cộng Sản. Cuốn sách chấm dứt bằng lời ghi nồng nhiệt, mô tả tình cảnh như thế nào trước khi Cộng Sản bị đánh bại, một trong những tay súng Cộng Sản nói với mẹ ông ấy, “Đã hòa bình rồi, Bác Hồ sẽ vào thăm Miền Nam. Bác sẽ đến thăm mẹ và con.” (86) Cuốn sách không nói gì tới các chiến dịch tuyên truyền, những tòa án vô thẩm quyền và bất hợp pháp, các vụ tàn sát người vô số, hay những mồ chôn tập thể. Khi tôi đọc cuốn sách này, tôi không thể thoát khỏi cảm nghĩ rằng nó là một phản ứng thực sự với Giải Khăn Sô Cho Huế: Biên niên sử của Hoàng Phủ Ngọc Tường chống lại tác phẩm của Nhã Ca.
Vào đầu thập niên 1980s, Hoàng Phủ Ngọc Tường rất dứt khoát trong quan điểm về các vụ tàn sát người tại Huế. Được Stanley Karnow phỏng vấn cho loạt phát sóng có chủ đề Việt Nam: Thiên Lịch Sử Truyền Hình, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng: “Người dân rất ghét những ai tra tấn họ trong quá khứ nên khi cách mạng đến Huế thì họ diệt trừ tận gốc những kẻ bạo ngược để thoát khỏi chúng cũng giống như chúng là những con rắn độc nếu để chúng sống thì sẽ phạm nhiều tội khác nữa.”(87)
Ngày 12 tháng 7 năm 1997, nhà phê bình văn học và nhà báo Thụy Khuê, chủ trì các chương trình văn học và nghệ thuật cho Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp (RFI)(88) bằng tiếng Việt, đã phỏng vấn người đàn ông sáu mươi tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường. Vào lúc này, Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành một nhà viết sử nổi bật của Huế và tác giả của nhiều tác phẩm văn học. Trong cuộc phỏng vấn ông phản ánh cuộc phỏng vấn trước đó của ông với Karnow, về các sự kiện tại Huế, và về Giải Khăn Sô Cho Huế.
(còn tiếp)

Ghi Chú

(79) Sách đã dẫn trên, trang 184-86.
(80) Sách đã dẫn trên, trang 186.
(81) Sách đã dẫn trên, trang 184-86.
(82) Lê Minh, “Huế, Xuân 68”, Huế, Xuân 68 (Thành Ủy Huế, 1988), trang 73-76.
(83) Mậu Thân 68 (Ban Tuyên Huấn Trung Ương, Hà Nội, 1988).
(84) Báo Washington Post, ngày 3 tháng 2 năm 1988, trang A8.
(85) Phỏng vấn vào mùa hè năm 2013 với Thái Thành Đức Phổ, một trong những giám đốc nhà xuất bản từ năm 1969 tới năm 1975 tại Hà Nội, cho nghiên cứu của tôi về một dự án khác. Sau chiến tranh, Thái Thành Đức Phổ được chuyển vào Sài Gòn/Thành Phố Hồ Chí Minh vào năm 1975 và tiếp tục làm việc ở đó cho tới năm 2004.
(86) Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngôi Sao Trên Đỉnh Phu Văn Lâu (Nhà xuất bản Giải Phóng, Hà Nội, 1971), trang 78.
(87) Stanley Karnow, phóng viên trưởng, “Tết 1968,” Vietnam: A Television History [Việt Nam: Một Thiên Lịch Sử Truyền Hình], PBS, WGBH Educational Foundation, Boston, 1983.
(88) Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp truyền thanh từ thủ đô Paris bằng nhiều ngoại ngữ, gồm tiếng Việt.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.