Hôm nay,  

Học Giả, Dịch Giả Olgar Dror Viết Về Nhã Ca & ‘Giải Khăn Sô Cho Huế’ (Kỳ 10)

14/02/201521:38:00(Xem: 13144)

Nguyên tác Anh ngữ: Olga Dror

Bản dịch Việt ngữ: Huỳnh Kim Quang

image002Như toàn văn lịch sinh hoạt tại Berleley đã phổ biến, Thứ Tư 25 tháng Hai 2015, nhằm ngày mùng bảy Tết Ất Mùi, sách “Mourning Headband for Huế” --từ nguyên tác tiếng Việt “Giải Khăn Sô Cho Huế” của Nhã Ca -- chính thức thành đề tài thảo luận tại Đại Học Berkeley, với hai diễn giả chính là Nhã Ca, người viết, và Olga Dror, người dịch.
February 2015
Mourning Headband for Hue
Reading - Literary | February 25 | 4-6 p.m. | 180 Doe Library
Featured Speaker: Nha Ca, writer
Speaker: Olga Dror, Associate Professor of History, Texas A & M University
Sponsor: Center for Southeast Asia Studies
This book event will highlight the new English-language translation of prominent Vietnamese writer Nha Ca's memoir Giai khan so co Hue, which was first published in 1969 as an eyewitness chronicle of the suffering of Vietnamese civilians caught in the city of Hue during the 1968 Tet offensive.
This event will include remarks on the translation by Prof. Olga Dror, the book's translator [in English], and commentary about the book itself by Nha Ca [in Vietnamese, with English language translation provided]
Nha Ca was born in Hue, Vietnam in 1939, but moved to Saigon after her marriage where she established a literary career. After the fall of South Vietnam in 1975, Nha Ca was incarcerated by the new national government. She was allowed to emigrate to the West with her family in 1989 and now lives in southern California.
Olga Dror was born in the Soviet Union and received an M.A. in Oriental Studies from Leningrad State University in 1987. She emigrated to Israel in 1989, and later moved to the U.S. to study Vietnamese history at Cornell University. She received her Ph.D. from Cornell in 2003, and has been a member of Texas A&M's faculty since 2004. Event Contact: [email protected], 510-642-3609; 322 Wheeler Hall. Berkeley CA 94720 :: 510.642.3467 UC Berkeley.
Tuy giỏi nhiều ngôn ngữ và từng trực tiếp dịch bút ký truyền giáo ở Việt Nam của Linh Mục Adriano di Santa Thecla từ tiếng La Tinh, hay bút ký chạy loạn Huế Mậu Thân của Nhã Ca từ Việt ngữ sang Anh ngữ, công việc chính của Olga Dror là nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Việt Nam tại Texas A&M University. Đó là lý do trong ấn bản Mourning Headband for Hue, ngoài phần dịch thuật, Olga Dror còn có thêm “Translator’s Introduction”, (Giới Thiệu của Dịch Giả) bổ cứu công phu, phân tích tỉ mỉ các quan điểm về Chiến Tranh Việt Nam và trận chiến Huế. Sau đây là bản dịch bài viết công phu của bà về “Giải Khăn Sô cho Huế” và tác giả Nhã Ca.


image007Trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường (Bài tiếp theo kỳ trước)

Hoàng Phủ Ngọc Tường (khi trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê, Đài RFI tại Paris) nhận rằng người tiếp xúc với ông cho cuộc phỏng vấn trong loạt Việt Nam: Thiên Sử Truyền Hình là Burchett. Ông ấy rõ ràng nói đến William Burchett, một nhà báo Úc và là người hậu thuẫn mạnh mẽ phong trào Cộng Sản, những người mà trong thời chiến tranh đi theo lực lượng Cộng Sản tại miền Nam khi họ chiến đấu với quân đội Mỹ và Nam Việt Nam.(89)
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhớ lại: “Thời gian dài trước đây, tôi ứng khẩu [khi tôi trả lời phỏng vấn]; Tôi không nhớ chính xác tôi đã nói gì.”(90) Vì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không có cơ hội xem cuộn phim, ông không biết “ý kiến của ông đã được sao chép lại có đúng không.” Ông chỉ nhớ rằng lúc phỏng vấn cho loạt phóng sự đó, ông đã phân biệt ba loại nạn nhân. Loại đầu là những người đã chết vì các hành động trừng trị bởi Quân Giải Phóng, dành cho những người có tội. Loại thứ hai gồm các nạn nhân của bất công. Loại thứ ba gồm các nạn nhân chết vì bom đạn Mỹ hay những người bị bắn và bị giết bởi quân đội của chính quyền Nam Việt Nam trong sự trả thù những người trong thời gian phản công. Việc phân loại này, như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã giới thiệu lại trong cuộc phỏng vấn với Thụy Khuê vào năm 1997, khác nhiều với cách ông trình bày quan điểm của ông với Karnow vào đầu thập niên 1980s.
Sự khác nhau giữa hai cuộc phỏng vấn thì rõ ràng cả trong nội dung và giọng điệu. Giọng điệu của ông thay đổi từ xúc phạm đến trầm ngâm. Sự khác biệt sâu hơn nữa khi Hoàng Phủ Ngọc Tường nói về sự thống khổ của người dân Huế. Theo cuộc phỏng vấn của Đài RFI, rất đau khổ cho ông, khi là một người con xứ Huế, khi ông nghĩ “về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.”
Ông cũng dừng lại, một cách miễn cưỡng, ở vấn đề trách nhiệm. Căn bản, ông đi theo Lê Minh. Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng những người chịu trách nhiệm đối với thảm kịch là những viên chỉ huy địa phương, rằng chính sách của cách mạng là không chịu trách nhiệm đối với điều này bởi vì những thảm kịch tương tự đã không xảy ra ở những nơi khác. Ông cũng, lập lại theo Lê Minh, đề nghị rằng “điều quan trọng có thể làm, và phải làm bây giờ là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế phảithi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ.” Hoàng Phủ Ngọc Tường rõ ràng đã rút ra rất nhiều điều từ bài viết của Lê Minh. Ông cho rằng chính ông “không đủ khả năng [trong sự hiểu biết về các sự kiện] để xét đoán bất cứ cá nhân nào.” Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn giữ khoảng cách với thảm kịch tại Huế.
Hoàng Phủ Ngọc Tường thật sự có mặt hay không tại Huế trong thời gian Tết Mậu Thân là một vấn đề tranh cãi. Vennema, như đã trích ở trên, và đa số người Việt Nam sống tại Huế và với những ai mà tôi thảo luận về vấn đề này đều cho thấy rằng, trong quan điểm của họ, ông đã ở đó. Tuy nhiên, chính Hoàng Phủ Ngọc Tường không đồng ý về điểm này. Theo ông, ông “không có mặt ở Huế trong thời gian Tết Mậu Thân, vì tham gia Kháng Chiến trong rừng, từ mùa hè năm 1966, và trở lại Huế chỉ sau ngày 26 tháng 3 năm 1975,” khi Huế bị lực lượng Cộng Sản chiếm. Ông nói rằng cho đến khi đó ông là tổng thư ký của Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình của Huế đóng trụ sở tại Quận Hương Trà Tỉnh Thừa Thiên, mà ông cho biết nằm cách Huế năm mươi kilômét.
Nghi vấn về cuốn sách của Hoàng Phủ Ngọc Tường Ngôi Sao Trên Đỉnh Phu Văn Lâu: Biên Niên Sử, được viết vào năm 1969 và được xuất bản vào năm 1971, không bao giờ được nêu lên trong sách này hay các cuộc phỏng vấn khác, cho đến khi tôi biết. Nhưng sự có mặt của cuốn sách này dường như là quan trọng vì nó nêu ra một số câu hỏi: dựa trên căn bản gì mà ông viết biên niên sử năm 1969 về các sự kiện tại Huế nếu ông thực sự không có mặt tại Huế từ năm 1966 tới năm 1975? Không biết xuất xứ của các nguồn [thông tin], thì có thể nào cuốn sách này thực sự được xem là biên niên sử? Phải chăng Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Huế nhưng không muốn thừa nhận điều này? Hay là ông đã ở cách xa Huế, viết tác phẩm, một loại phản ứng đối với tác phẩm của Nhã Ca (người thực sự ở Huế trong thời gian Tết và giải thích các nguồn [thông tin]), phân biệt giữa tác phẩm của ông và những gì chính bà chứng kiến và những gì bà đã nghe?


Tôi cố gắng tiếp cận Hoàng Phủ Ngọc Tường để nhờ ông giúp làm sáng tỏ một số điểm nêu trên nhưng đã thất bại. Sức khỏe của Hoàng Phủ Ngọc Tường suy sụp.
Trong một xuyên tạc khá lạ lùng trong cuộc phỏng vấn với Thụy Khuê, ông nói rằng trong Giải Khăn Sô Cho Huế, Nhã Ca đã giải oan cho ông, “rằng là ông đã không trở lại Huế trong thời gian Tết Mậu Thân, nhưng nếu ông có trở lại, thì chắc chắn ông cũng đã không giết người.” Ông bày tỏ sự cám ơn Nhã Ca vì sự chia xẻ với ông cái điểm hoàn cảnh khách quan rất quan trọng này. Sự thực, trong chương 7 của “Giải Khăn Sô Cho Huế,” Nhã Ca kể lại lời của một người con gái trẻ tên Hường là người tin rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường không trở lại Huế, nhưng sau đó đồng chí của Hoàng Phủ Ngọc Tường là Nguyễn Đắc Xuân, xác định ngược lại, rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ở Huế và ở tại Trường Gia Hội. Trường Gia Hội là địa điểm của một trong những tòa án ô nhục nhất thực hiện các phiên tòa vô thẩm quyền và bất hợp pháp và kết án hành hình ngay tức thì. Trong khi người ta có thể muốn biết thông tin mà Nhã Ca truyền đạt gián tiếp có đúng hay không, cuốn sách [của bà] không hậu thuẫn cho lời tuyên bố của ông rằng ông không có mặt tại Huế.
Đối với tôi vẫn còn chưa rõ điều gì đã khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa ra ước định sự miêu tả của Nhã Ca về ông. Có thể là trí nhớ của ông phản bội ông. Tôi bất đắc dĩ nghĩ rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không đọc kỹ cuốn sách hay ông nghĩ rằng sự khả tín của bà như là một nhân chứng là sai trong khi cùng lúc ông cho là những gì Nhã Ca đã viết thì không giống điều được biết bởi hay được kiểm chứng bởi những thính giả nghe cuộc phỏng vấn của ông.
Tuy thế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đánh giá rất tích cực về Giải Khăn Sô Cho Huế: “Dù có một số sự việc không đúng sự thực, do có hay không có dụng ý của tác giả, Giải Khăn Sô Cho Huế đối với tôi vẫn là một bút ký hay viết về Huế trong thời gian Huế Mậu Thân; hàng chục năm qua đọc lại tôi vẫn còn thấy quặn lòng.”

Trường hợp Nguyễn Đắc Xuân

Một người khác xuất hiện trong nhiều trang của “Giải Khăn Sô Cho Huế” là Nguyễn Đắc Xuân, có quan điểm rất khác với tác phẩm của Nhã Ca.
Trong khi còn là sinh viên, như được mô tả bởi Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông là một trong những khuôn mặt lãnh đạo của Phong Trào Đấu Tranh năm 1966 và là chỉ huy của “Đội Cảm Tử” chiến đấu chống lại chính quyền Nam Việt Nam. Đội này chủ yếu gồm các sinh viên Phật tử.(91) Ông và đội của ông gánh phần rất tích cực trong cuộc đối đầu giữa Tướng Nguyễn Chánh Thi và chính quyền Sài Gòn trong năm 1966, được biết như là Cuộc Nổi Dậy Của Phật Giáo. Khi cuộc nổi dậy bị đàn áp, ông bỏ trốn và theo Việt Cộng. Hiện nay, Nguyễn Đắc Xuân, cũng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, là những nhà nghiên cứu lịch sử Huế và lịch sử triều đại nhà Nguyễn, đã xuất bản hàng chục cuốn sách. Cả hai ông này đều là thành viên của Hội Nhà Văn.
Từ những bài viết và hồi ký của ông, rõ ràng Nguyễn Đắc Xuân không chia xẻ cảm nghĩ tích cực về Giải Khăn Sô Cho Huế. Năm 1999 và trong một số tác phẩm sau đó, gồm tác phẩm mới nhất vào năm 2012, Nguyễn Đắc Xuân hồi tưởng ấn tượng đầu tiên của ông khi đọc tác phẩm của Nhã Ca.(92) Ông cho là không cảm thấy giận dữ tác giả vì sự miêu tả của bà về ông bởi lẽ ông hiểu rằng đó là “một câu chuyện để phục vụ [mục đích của] chiến tranh tâm lý rẻ tiền.”(93)
Nguyễn Đắc Xuân thẳng thừng bác bỏ mô tả của Nhã Ca về ông trong điều mà, theo ông, ông được mô tả như “giết người trong cách bi thảm” với chính người bạn học Trần Mậu Tý của ông.(94)
Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường sai trên mặt tích cực trong sự hiểu sai hay trình bày sai về miêu tả của Nhã Ca về ông, thì Nguyễn Đắc Xuân lại đi vào hướng đối nghịch. Sự thật, Nhã Ca không nói trong Giải Khăn Sô Cho Huế rằng Nguyễn Đắc Xuân đã giết Trần Mậu Tý. Khi bà đề cập tới ông trong “Lời Tựa Nhỏ” của bà và sau đó trong chương 7, bà mô tả cảnh tượng nơi mà Nguyễn Đắc Xuân tra tấn tàn bạo Trần Mậu Tý bằng việc giam giữ ông ấy bên bờ vực cái chết. Bà không hề viết rằng Đắc giết Trần Mậu Tý*. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là Nguyễn Đắc Xuân đã hiểu nó như là lời buộc tội giết người, mà, như ông nói, đã ảnh hưởng đến mối quan hệ với nhiều người trong quá trình của cuộc đời ông.(95)
Ông cho rằng không phải ông nhưng là người khác mà Nhã Ca đã mang vào trong các trang sách của Giải Khăn Sô Cho Huế bởi vì trong cuốn sách Nhã Ca đề cập đến ông như Đắc, không phải Xuân, mà ông nói là tên riêng của ông.(96)
(còn tiếp)


Ghi Chú

(89) Sau chiến tranh, Burchett đi du lịch tới Cam Bốt, nơi mà ông đã ca ngợi Khờ Me Đỏ, một nhóm Cộng Sản chiếm Cam Bốt sau khi chấm dứt chiến tranh và được biết chịu trách nhiệm việc thực hành chính sách diệt chủng đối với dân tộc Cam Bốt. Sau đó, Burchett lên án Khờ Me Đỏ. Một trong những nguồn tài liệu về Burchett là tác phẩm Burchett Tường Trình Khía Cạnh Khác Của Thế Giới, từ năm 1939 tới 1983 của Ben Kienan (Nxb Quartet Books, London, 1986).
(90) Thụy Khuê, thông tín viên, “Nói Chuyện Với Hoàng Phủ Ngọc Tường Về Biến Cố Mậu Thân Ở Huế,” RFI, ngày 12 tháng 7 năm 1997, http://www.nguoivietatlanta.com/index.php?option=com_content&view=article&id-769:thy-khue-noi-chuyn-vi-hoang-ph-ngc-tng-v-bin-c-mu-than-hu&catid=72:xuan-quy-t&Itemid=128 (vào truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2013). Tất cả trích dẫn từ Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bản văn vài đoạn là từ nguồn thông tin này.
(91) Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngôi Sao Trên Đỉnh Phu Văn Lâu, trang 65.
(92) Đối với bài viết mới nhất gần đây, xin xem Nguyễn Đắc Xuân mô tả con đường của ông trở thành thành viên của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trong một trong những tờ báo có lượng độc giả nhiều nhất, Tuổi Trẻ, trong một loạt bài đăng từng kỳ với tựa đề “Huế – Những Tháng Ngày Sục Sôi” từ ngày 8 tháng 1 năm 2012 tới ngày 14 tháng 1 năm 2012, với lần đăng cuối cùng có tựa đề “Trở Thành Việt Cộng” và 3 số hồi ký, Từ Phú Xuân Đến Huế (Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2012).
(93) Nguyễn Đắc Xuân, “Hậu Quả Của ‘Cái Chết’ Của Tôi,” Nghiên Cứu Huế 1 (1999): trang 255; Nguyễn Đắc Xuân, Từ Phú Xuân Đến Huế, 3: trang 136.
(94) Nguyễn Đắc Xuân, Từ Phú Xuân Đến Huế, 3: trang 145.
(95) Sách đã dẫn trên, 2: trang 259-60; 3: trang 142-150.
*Ghi chú thêm: Sách Giải Khăn Sô Cho Huế, chương Bẩy: Chuyện từ Thành Nội” có đoạn kể theo hai anh em nhân vật tên Hường, việc họ nghe Đắc xử tội Mậu Tý, bằng cách ra lệnh “Mày xuống đứng dưới cái hố tao hỏi tộâi.” Câu cuối đoạn kể, nguyên văn “Sau đó, Đắc kéo Tý lên rồi dẫn đi.”
Đó là lần sau cùng sách Giải Khăn Sô Cho Huế đề cập tới nhân vật Đắc.
Chính Nguyễn Đắc Xuân sau này cũng xác nhận trong hồi ký của ông rằng ông có được giao cho xử Mậu Tý, có bắt Tý đứng đưới cái hố nhưng không hề giết mà sau đó còn kéo Tý lên khỏi hố, mang Tý đi giao cho một người khác.
(96) Sách đã dẫn trên, 3: trang 135.

Ý kiến bạn đọc
15/02/201507:13:04
Khách
Bài viết về "Nhã Ca & Giải khăn sô cho Huế" của Olgar Dror rất hay
vì có những lý lẽ thuyết phục.Hiếm có người nước ngoài nào nhận
định công bình và khách quan như tác giả này.
Chỉ xin góp ý nhỏ là tên đúng là Wilfred Graham Burchett,chứ không
phải là William Burchett,một người Úc Cộng sản làm việc cho Quốc
Tế Cộng sản,được Liên Xô (cũ) trả lương.Có thời sống ở đó.
Những năm cuối đời ông trốn khỏi nước Úc vì không có tiển trả trong
một vụ án mà ông thua kiện và chết ở Bulgaria.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.