Hôm nay,  

Đoạn đường còn lại trong nỗ lực bài trừ nạn kỳ thị chủng tộc tại Hoa Kỳ

29/03/201500:01:00(Xem: 7987)

Đoạn đường còn lại trong nỗ lực

bài trừ nạn kỳ thị chủng tộc tại Hoa Kỳ

 

          Từ phong trào đòi dân quyền trong thập niên 1960, trong 50 năm qua người Mỹ đã có quyết tâm xóa nạn kỳ thị chủng tộc. Và kết quả là: “không còn sự kỳ thị công khai, nhưng vẫn còn sự phân biệt chủng tộc

          Đó là kết luận của giáo sư Fredrick C. Harris và tiến sĩ Robert C. Lieberman trình bày trong cuốn sách “Beyond Discrimination: Racial Inequality in a Postracist Era”  hai vị viết chung.  Giáo sư Fredrick Harris là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính trị - Xã hội về người Mỹ gốc Phi châu tại đại học Columbia. Tiến sĩ Robert Lieberman là giáo sư  Khoa học Chính trị tại đại học Johns Hopkins .

          Nội dung cuốn sách được hai tác giả thu gọn trong bài viết “Racial Inequality After Racism” (Sau Kỳ thị là Phân biệt chủng tộc đăng trên tờ Foreign Affairs số March/April 2015.

          Sau đây là các điểm chính của bài viết.

 

** Trần Bình Nam**

 

          Mùa hè năm 2014 hai thanh niên da đen Michael Brown ở Ferguson, Missouri và Eric Garner ở Staten Island, New York chết bởi những người cảnh sát da trắng khi thi hành công vụ làm nổi bật lại vấn đề kỳ thị đen trắng tại Hoa Kỳ.

          Sáu năm trước, khi nhậm chức Tổng thống ông Barack Obama hứa sẽ xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc. Và người Mỹ tin rằng nếu ông Obama, một người da đen có thể đắc cử tổng thống thì đó là một điều trong tầm tay.

          Nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Nạn kỳ thị vẫn còn đó, ngoại trừ người da đen được biểu tình phản đối cảnh sát mà không bị đánh đập như giữa thế kỷ trước .   

          Năm 1944, ông Gunnar Myrdal, một nhà kinh tế người Thụy Điển cho rằng nạn đen-trắng là một vấn đề khó xử (a dilemma) của Hoa Kỳ, một bên là lý tưởng công bình, một bên là thực tế của cuộc sống. Thực tế đó là tình trạng kinh tế kém cỏi của đa số người da đen đẻ ra sự phân biệt. Giải pháp là, hoặc người Mỹ trắng thay đổi thái độ đối với thành phần kinh tế kém cỏi trong xã hội, hoặc người da đen cải thiện khả năng kinh tế của mình để người da trắng thay đổi thái độ.

blank

   

          Nhiều chục năm sau cuộc tranh đấu dân quyền khởi đầu năm 1965 tại Selma, Alabama, đã có sự thay đổi thái độ đối với vấn đề chủng tộc tại Hoa Kỳ. Thí dụ “các bộ luật có tính kỳ thị” tại các tiểu bang nhất là các tiểu bang miền Nam, và “thái độ kỳ thị công khai” được hủy bỏ, nhưng sự cách biệt về lợi tức, công ăn việc làm, giáo dục, sức khỏe, nhà ở giữa người da đen đối với người da trắng làm cho sự thay đổi thái độ của người da trắng vẫn dậm chân tại chỗ. Thống kê cho thấy số người đa den nghèo nhiều gấp ba lần người da trắng, bị bắt bị nhốt nhiều gấp 6 lần, và cứ 13 gia đình trung lưu người da trắng mới có một gia đình trung lưu người da đen.

          Vậy quan hệ đen – trắng tại Hoa Kỳ hiện nay ra sao? Câu trả lời đơn giản là: Tại Hoa Kỳ không còn sự công khai kỳ thị, nhưng sự phân biệt xã hội vẫn bàng bạc trong đời sống hằng ngày, ẩn hiện một cách tế nhị .

          Tại sao người Mỹ có thiện chí bài trừ nạn kỳ thị, mà sự phân biệt màu da vẫn tồn tại?  Câu trả lời có lẽ “kín đáo” nằm trong định chế của xã hội Mỹ.

          Trước hết là định chế tài chánh. Sau vụ khủng hoảng tài chánh năm 2008, các cơ sở kiểm soát (regulators)  yêu cầu các ngân hàng duyệt xét lại xem những điểm yếu nằm ở đâu (quy trình duyệt xét này quy định bởi luật Dodd – Frank ban hành năm 2010 gọi là “stress-test”). Sự duyệt xét này cho thấy 3 căn bệnh chính của các ngân hàng công cũng như  tư ở Hoa Kỳ là: (1) vận hành dựa vào những giả thuyết không chính xác, (2) thiếu sự kiểm soát nội bộ, và (3) điều hành một cách thiên vị mà không cho là thiên vị. Và cả 3 căn bệnh đều đưa đến kết quả bất lợi cho người thiểu số da đen.

 

**

          Hoa Kỳ là một xã hội trong dó ai chịu khó làm việc và sống theo khuôn mẫu xã hội đều có cơ hội thăng tiến. Và những người bảo thủ cho rằng nếu người da đen bị chậm lụt là vì họ thiếu sáng kiến. Mới đây dân biểu Paul Ryan (CH, Wisconsin, khuynh hướng Tea Party) công khai nói rằng sự nghèo khó tại các trung tâm thành phố là do nguời đen sống với “văn hóa không chịu làm việc”.  Và theo nhà nghiên cứu John McWhorter, người da đen chậm lụt vì mang mặc cảm tự ti của thời nô lệ và cứ yên chí rằng họ là nạn nhân của người da trắng.

          Trong một cuộc thăm dò năm 2013 bởi Viện Gallup, 83% người Mỹ da trắng cho rằng không ai phân biệt đối xử người da đen và làm cho họ thất nghiệp, có lợi tức thấp và sống trong những khu tăm tối. Chỉ vì họ thiếu khả năng, lười biếng và vô trách nhiệm đối với xã hội.

          Do vậy, người Mỹ da trắng không nhiệt tâm ủng hộ luật New Deal trong thập niên 1960 của tổng thống Lyndon Johnson và Quốc hội đã cắt bớt trợ cấp cho người thiểu số trong thập niên 1990 (Luật Di trú ban hành năm 1996). Kết quả, đời sống người da đen trở nên khó khăn hơn.

          Định chế là một bàn tay kỳ thị vô hình. Luật bầu cử chẳng hạn, nhìn bên ngoài như không có tính kỳ thị, nhưng khi áp dụng là một hành động kỳ thị đối với người yếu kém trong xã hội. Thí dụ trước cuộc tranh đấu dân quyền thập niên 1960, nhiều tiểu bang áp dụng luật  buộc công dân muốn đi bầu phải hội đủ một số điều kiện như: không thiếu thuế, biết đọc biết viết. Các điều kiện này không trái với Tu chính 15 Hiến pháp cấm kỳ thị đối với quyền bầu cử và ứng cử của công dân, nhưng thực tế đã giới hạn số người đa đen đi bầu.

          Và hiện nay luật cho phép quan tòa tuyên phạt người dùng “crack cocaine” và người  dùng “cocaine bột” những bản án như nhau cũng là một hình thức kỳ thị kín đáo làm cho tỉ số người da đen bị tù tăng lên. Crack cocaine dễ chế biến, rẻ tiền, người da đen hay dùng, trong khi Cocaine bột đắt tiền đa số là người da trắng dùng.

          Nhà tâm lý học Richard Herrnstein và nhà khoa học chính trị học Charles Murray, trong một cuốn sách viết năm 1994 đi xa hơn, cho rằng trời sinh giống người da trắng và người da đen khác nhau và đó là nguyên nhân khác biệt xã hội không có thuốc chữa. Hiện nay tại Hoa Kỳ không ai “dám” bày tỏ ý kiến ấy một cách công khai nhưng âm thầm nhiều người tin như vậy, nhất là trong lĩnh vực giáo dục.

          Nhưng học giả Wiliam Julius Wilson không tin như vậy. Ông nhắm mũi dùi vào quá trình phát triển sinh hoạt kinh tế và kỹ nghệ hơn là do cấu tạo trí óc trời sinh. Ông nói rằng trong hậu bán thế kỷ 20, hoạt động kỹ nghệ vốn nuôi dưỡng một tầng lớp thợ thuyền tay nghề bậc trung da đen da trắng ngang ngữa tại các thành phố bỗng nhiên biến mất để được thay thế bằng những công việc đòi hỏi kiến thức và hiểu biết cao.Trong cuộc thay đổi sinh hoạt kỹ nghệ này, mọi thành phần  - đen hay trắng – đều bị ảnh hưởng, nhưng người da trắng nhờ quan hệ gia đình và xã hội ít bị ảnh hưởng hơn người da đen.

          Một thí dụ khác về “kỳ thị” là cái quảng cáo tranh cử của tổng thống George Bush năm 1988 kết án ông Dukakis thống đốc Massachusetts ứng cử viên Dân chủ đã không đủ cứng rắn trong chính sách an toàn xã hội bằng cách cho phép tù nhân trọng tội cũng được về thăm nhà. Tù nhân người da đen Willie Horton trong khi về thăm nhà đã phạm tội giết người khác. Cái quảng cáo chỉ trích chính sách cho tù nhân phạm trọng tội về thăm nhà là vô trách nhiệm, nhưng ngầm chứa đựng ý “dễ dãi với tù nhân người đen thì rất nguy hiểm”. Và cái quảng cáo “kỳ thị” này đã rất ăn khách với cử tri da trắng và là một trong những yếu tố làm cho ông Dukakis thất cử.

          Ai cũng biết người đầu bếp nổi danh Paula Deen và ông Donald Sterling, chủ nhân đội bóng rổ Clippers ở Los Angeles hay phát biểu linh tinh mang nội dung kỳ thị người da đen nhưng được hiểu là “đùa chơi” và không ai đặt thành vấn đề cho đến lúc ông công khai kỳ thị lực sĩ bóng rổ Michael Jordan vì ghen tuông với cô đào V. Stiviano mới sinh chuyện. Người phóng khoáng cho rằng sự việc báo chí đã không phê bình ông Donald Sterling  để chấm dứt các lời đùa bỡn kỳ thị trước đó là một bằng chứng truyền thông kỳ thị.

          Sự kỳ thị còn phảng phất trong việc thuê nhà ở và vay tiền mua nhà.  Người thiểu số có khả năng tài chánh không vững phải vay tiền mua nhà với lãi xuất cao và trở thành nạn nhân bị lấy nhà trong cuộc khủng hoảng tài chánh nhà cửa năm 2008.

          Tuy nhiên đã có một bước đi dài trên con đường chống kỳ thị,  kể từ cái mốc phán quyết Plessy v. Fergusion  của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ (TCPV) năm 1896 xác định nguyên tắc “phân cách nhưng bình đẳng” (separate but equal) công khai chấp nhận sự kỳ thị tại trường học, công sở ...  Hiện nay phán quyết  Plessy v. Fergusion  xem như đã được vất bỏ vào sọt rác lịch sử nhất là sau khi các Bộ Luật Dân quyền (Civil Rights Act 1964), Luật Bầu cử (Voting Rights Act 965) và Luật cho thuê và mướn nhà (Fair Housing Act 1968) được ban hành. Các bộ luật này minh thị cấm kỳ thị nơi công sở, trong việc giáo dục, thuê mướn, mua nhà, quyền ứng cử bầu cử và quyền ký giao kèo với chính phủ.    Tuy nhiên, sự áp dụng các luật trên mỗi tiểu bang một khác nhất là Luật Bầu cử. Luật này giúp tăng sức mạnh chính trị của người thiểu số da đen và – do đó - gặp nhiều ngăn trở nhất trong việc thi hành. Phán quyết của TCPV năm 2013 trong vụ “Quận Shelby kiện Holder” (Shelby County v. Holder) vừa qua diễn giải sự thi hành Luật Bầu cử bất lợi cho người thiểu số. Phán quyết này cho phép một tiểu bang thông qua một số quy định giới hạn quyền đi bầu mà không cần được sự đồng ý của chính phủ Liên bang

          Sự bình đẳng trong giáo dục còn khó thực hiện hơn. Mặc dù luật năm 1955 bãi bỏ sự phân chia đen trắng tại các trường học, thỉnh thoảng TCPV có những phán quyết phản lại sự thi hành luật này. Năm 1974 TCPV phán quyết hủy bỏ một chương trình “busing” của thành phố Detroit là chương trình chở học sinh từ vùng này qua học ở vùng khác. Và mới nhất, năm 2007 TCPV phán quyết bãi bỏ chương trình học chung các thành phần khác chủng tộc tại Seattle (bang Washington) và Louisville (bang Kentucky). Phát biểu cho đa số trong phán quyết này, ông chánh án TCPV John Roberts nói rằng “phương cách chống kỳ thị giữa giống người này với giống người khác là không kỳ thị với bất cứ giống người nào cả” (Ý ông nói chương trình học chung tại các trường công là kỳ thị người da trắng – kỳ thị trong cái nghĩa là buộc người da trắng làm điều mà quyền hiến định cho phép họ có thể không làm)

          Trong lĩnh vực thuê nhà và mua nhà trong một địa phương nào đó người đa đen thường bị người ở tại địa phương đó làm khó dễ vì họ không muốn bất động sản của họ bị xuống cấp. Và tòa án thường xử bất lợi cho người da đen vì họ không có khả năng thuê luật sư giỏi. Đó là chưa nói đến sự thiếu công bình của một số quan tòa.

          Tuy nhiên nhìn chung, nếu chưa khuất hẵn, bóng đen kỳ thị cũng đã và đang mờ dần theo thời gian nhờ nỗ lực chung của những lực lượng hướng thiện tại Hoa Kỳ. Kinh tế gia James Hecklman nói rằng sự tiến bộ này quan trọng nhất về mặt công ăn việc làm và giúp cải thiện đời sống kinh tế của người da đen trong hai thập niên 1960 và 1970  kéo theo sự tiến bộ về sức khỏe và giảm tội phạm.

 

**

          Nhà xã hội học Eduardo Bonilla-Siva giải thích sự việc ai cũng muốn bãi bỏ kỳ thị mà nạn kỳ thị vẫn tồn tại bằng cụm từ “kỳ thị mà không có người kỳ thị” (racism without racists). Vào thập niên 1960 ông Stokely Carmichael lãnh tụ phong trào “Sức mạnh Da đen” (Black Power) gọi đây là hiện tượng “kỳ thị bởi định chế” (institutional racism), một hình thức kỳ thị cá nhân không thấy có trách nhiệm nên không ai tìm phương thuốc chữa.

          Công cuộc ổn định xã hội của chính quyền cũng vô tình đưa đến kỳ thị.Trong hai thập niên 1960, 1970 phong trào đòi dân quyền làm cho xã hội mất ổn định. Các chính quyền địa phương được sự mặc nhiên đồng ý của chính quyền liên bang ban hành nhiều luật lệ nhắm mục đích mang lại trật tự xã hội gián tiếp làm cho nạn kỳ thị sinh sôi nẩy nở .

          Thời tổng thống Nixon, đã có một loạt luật lệ cấp liên bang và tiểu bang cho phép quan tòa phạt tù dài ngày hơn, cho phép xử vị thành niên như thành niên, cho phép cảnh sát xử dụng các phương pháp điện tử để theo dõi hành động nghi ngờ tội phạm một cách dễ dàng hơn, và tệ nhất là liên bang tăng tiền trợ cấp cho các cơ quan công lực địa phương bắt giữ nhiều người. Cái lưới luật pháp được tung ra và đa số bị dính vào lưới là người da đen!  Và một khi cha vào tù, con cái không được săn sóc chu đáo lớn lên dễ trở thành du đảng lại vào tù tạo thành hiện tượng “ở tù gia truyền” (intergenerational incarceration)

 

**

 

          Sự vận hành của bộ máy kinh tế và tài chánh cũng đóng góp không ít vào không khí  “kỳ thị mà không có người kỳ thị”.  Người thiểu số nhất là người thiểu số da đen không được hưởng cái gọi là “kinh tế thị trường” một cách công bình. Nhà sự học Devin Fergus chỉ ra rằng các chính sách về thuế má và bảo hiểm chôn vùi trong sách vở tạo nên những điều kiện sinh hoạt bất lợi cho các địa phương có nhiều người  thiểu số sống. Ông Fergus nêu ra thí dụ như luật California cho phép tính tiền bảo hiểm xe theo “zip code” chứ không hoàn toàn dựa vào thành tích lái xe của người mua bảo hiểm. Cách tính này làm cho đa số người da đen sống trong các “zip code” xấu phải trả bảo hiểm cao hơn người da trắng cùng có một thành tích lái xe ở trong những “Zip” được coi là an toàn hơn. California đã bãi bỏ luật này, nhưng nhiều tiểu bang khác vẫn còn dùng.

          Cũng một cung cách như vậy, các ngân hàng và cơ sở tài chánh giới hạn dịch vụ cho vay tiền mua nhà nếu bạn ở trong một vùng có nhiều người thiểu số ở .

          Trong một hướng nghiên cứu khác nhà tâm lý học Naa Oye Kwate nhận thấy, ngay trong lĩnh vực quảng cáo để thêm khách hàng vô tình cũng thể hiện sự kỳ thị chủng tộc. Các công ty bán lẻ lấy trong kho dữ kiện (database) sở thích từng nhóm người để hướng quảng cáo món hàng của họ đến nhóm người đó để kiếm thêm khách hàng.Thực tế là người tiêu thụ bị ảnh hưởng bởi quảng cáo và hay mua những món hàng nào được quảng cáo nhiều. Đối với người thiểu số khi mua hàng được quảng cáo họ mua những mặt hàng không tốt cho sức khỏe như thức ăn nhanh (fast food) và rượu xấu.

          Sau cùng trong lĩnh vực giáo dục. Cuộc tranh đấu dân quyền thập niên 1960 đưa đến sự hủy bỏ chế độ đen trắng không học chung trường (segregation). Nhưng sự học chung trường sau đó, do các yếu tố luật pháp, kinh tế, xã hội cũng chỉ là hình thức. Con em người da đen ở khu nghèo tuy học chung nhưng trường nghèo hơn, ít có thầy giáo giỏi và học trong một không khí hay ẩu đả nhau và ma túy. Gia đình người da trắng ít cho con cái học tại các trường này. Nếu không có trường công vừa ý họ cho con học trường tư. Tại đó người da đen rất ít có khả năng được thu nhận.

 

**

          Sau hai vụ xẩy ra tại Ferguson và Staten Island,  tổng thống Obama nói với một ký giả trong một cuộc phỏng vấn rằng kỳ thị chủng tộc tại Hoa Kỳ có gốc rễ sâu xa và có tính hệ thống nên không thể bài trừ bằng những phương thuốc đơn giản.  Các phong trào chống kỳ thị cần kiên nhẫn, cần chống tinh thần thành kiến và vận động tích cực các nhà lập pháp thông qua những bộ luật chống kỳ thị có chiều sâu và chiều rộng.

          Các bộ luật cũng như các quy chế có mục đích chống kỳ thị đều cần được thử thách tính hiệu quả bằng “stress-test” áp dụng cho các định chế tài chánh. Ngoài ra cũng cần “stress-test” các chính sách và định chế bề ngoài có vẻ không liên hệ gì đến chủng tộc để tìm xem chúng có đẻ ra kỳ thị một cách vô tình không.

          Chính quyền chẳng những cần “stress-test” các cơ sở liên bang như tòa án, nhà tù mà còn nên trợ cấp ngân sách để khuyến khích các tiểu bang áp dụng phương pháp thử nghiệm. Các tiểu bang thì trợ cấp cho các học khu (school district) và các cơ sở thuộc thẩm quyền. Trong hướng này các cơ sở tư nhân cũng có thể  tự  “stress-test” để đánh giá cơ sở mình .

          Qua 50 năm đấu tranh đòi dân quyền,  người Mỹ đủ mọi chủng tộc đã thành công trong đoạn đường đầu là xác định bằng luật, bằng tục lệ minh thị rằng kỳ thị màu da là xấu, là vi phạm luật lệ quốc gia. Nhưng sự phân biệt màu da vẫn bàng bạc tồn tại như một chứng bệnh nan y. Và cuộc đấu tranh chống kỳ thị vẫn phải tiếp diễn .

          Hôm 7 tháng 3 (7/3/2015)  tại đầu cầu Edmond  Pettus ở thị trấn Selma, Alabama nơi 50 trước khởi đầu cuộc đấu tranh dân quyền trong dùi cui cảnh sát, máu và nước mắt, tổng thống Obama, phu nhân Michelle Obama và hai cô con gái Malia và Sasha cùng đủ mọi thành phần xã hội, trong đó có cựu tổng thống George W. Bush và bà Laura đã hiện diện để cam kết một cuộc hành trình cho đoạn đường còn lại.

         

 blank

Tổng thống Obama nói: “50 trôi qua kể từ ngày Chủ nhật đẫm máu đó cuộc hành trình của chúng ta chưa kết thúc, nhưng chúng ta đã đến gần đích hơn” (Fifty years from 'Bloody Sunday,' our march is not yet finished. But we are getting closer) .

          Nếu tổng thống Obama dành cuộc đời sau khi mãn

(Selma- Alabama, March 7, 2015)

nhiệm tổng thống đầu năm 2017 tới để cầm ngọn cờ tiên phong lãnh đạo dân chúng Hợp chúng quốc Mỹ đi trên con đường còn lại, thì chỗ đứng của ông trong lịch sử Hoa Kỳ sẽ vinh quang hơn là câu chuyện 8 năm làm tổng thống với  bao chuyện buồn vui .

 

Trần Bình Nam

March 28, 2015

[email protected]

www.tranbinhnam.com

 


.
,

Ý kiến bạn đọc
30/03/201504:29:44
Khách
Hay! Toi da doc bai nay tung chu mot de hieu mot cach thau dao hon. Cam on nguoi viet.
29/03/201522:37:03
Khách
Nỗ lực bài trừ là 1 chuyện, nhưng đừng có nằm mơ được trừ tận gốc. Tuy chuyện kỳ thị bây giờ không dậy sóng như xưa nhưng ở mức độ ngầm (not as strong and violent as tides like before but going on under the surface nhưng 1 người nhạy cảm sẽ nhìn thấy hết). 1 người kt có đủ lý do để làm vậy (kt màu da, sắc tộc, tiếng nói, accent...). Tôi sống ở miền Nam đủ lâu và tiếp xúc đủ nhiều để chứng kiến chuyện này vẫn còn tồn tại (khác biệt trong cách đối xử ở học đường, ở chổ làm...)
Ví dụ chuyện trong lớp học hay chổ làm nếu có trắng đen thì đen bị đì. Nếu có trắng đen vàng thì vàng bị 2 thèn trắng đen đì. Dân da vàng đi làm mà tiếng Anh không rành thì còn bị kt thê thảm hơn nhưng lại sợ không dán lên tiếng. Sự thật vẫn là sự thật.
29/03/201518:29:40
Khách
Không ngồi được ghế tổng thống không có nghĩa là không có khả năng lãnh đạo. Được ngồi ghế tổng thống dân cử hai nhiệm kỳ không có nghĩa là có khả năng lãnh đạo.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.