Hôm nay,  

Người Úc Gốc Việt, 40 Năm Nhìn Lại

5/7/201500:00:00(View: 6499)

LỜI MỞ ĐẦU

Tôi đến Úc khá sớm, ngày 17-5-1975. Những gì tôi sắp viết ra ở đây là những gì đã thấy, đã nghe, thu thập và cảm nhận được sau 40 năm sống và sinh hoạt chung với đồng hương VN tại Úc. Pha vào là những kỷ niệm, ký ức tôi có được khi đến thăm và làm việc cho những thuyền nhân trong các trại tỵ nạn tại Hongkong, trong vùng Đông Nam Á và sau đó là tại Úc. Thêm vào cũng là một vài kinh nghiệm có được sau nhiều năm làm cố vấn cho chính phủ về di dân và tỵ nạn.

Nhưng vì chỉ định cư ở Queensland nên đa số những gì tôi kể ra đều chỉ đã được thu thập ở tiểu bang này dù phần lớn những sinh hoạt đều na ná giống nhau trong cộng đồng người Việt tại những tiểu bang khác trong nước Úc.

Sau cùng tất cả chỉ là những ý kiến, những cảm nhận của một cá nhân, của một người đã bỏ quê hương ra đi tỵ nạn cộng sản và vẫn đang sống lưu vong nên nếu có lỡ lời xúc phạm cũng xin quý độc giả thứ lỗi cho.

Nhân đây tôi cũng xin cảm ơn TSYS đã cho phép tôi có cơ hội được nói về những thành quả của CĐ Úc sau 40 năm.

Cho đến tháng 4 năm 1975 số người Việt định cư tại cả nước Úc chỉ có vào khoảng 1000 người bao gồm 335 sinh viên du học trong chương trình Colombo, 130 sinh viên du học tự túc, 537 cô nhi và vợ con của những nhân viên, quân nhân đã tham chiến ở VN trong những năm 60. (theo SBS Census Explorer based on ABS Census data)

Năm 1975 tại Úc, chính phủ lao động của ông G. Whitlam đã ban hành đạo luật Racial Discrimination Act để xóa bỏ đạo luật White Australia Policy đã được ban hành từ năm 1901. Nhưng vì chính sách thân cộng, chính phủ của ông G. Whitlam không muốn nhận người tỵ nạn VN nên nhóm 39 người đầu tiên đến Úc ngày 17-5-1975 đã chỉ được nhận vào Úc trong diện di dân đoàn tụ gia đình chứ không phải dưới diện tỵ nạn. Số 39 người này đã chia thành hai nhóm 30 người đi định cư ở Melbourne và 9 người đi Brisbane.

Mãi đến cuối năm 1975 khi chính phủ của ông M. Fraser đảng Tự Do lên cầm quyền con số thuyền nhân được nhận đi định cư tại Úc mới tăng lên từ từ nhưng đều đặn. Đắc cử Dân biểu Liên bang năm 1955 khi mới 25 tuổi, cựu Thủ Tướng Fraser đã sớm có niềm tin vững chắc “Chủ nghĩa cộng sản, dưới bất cứ hình thức nào cũng là hiện thân của cái ÁC và là hiểm họa cho nhân loại.” Một trong những thành công quan trọng nhất khiến Thủ Tướng Malcolm Fraser và cả nước Úc tự hào là chính sách tiếp nhận và định cư 56,000 người Việt tỵ nạn cộng sản trong thời gian từ năm 1975 đến năm 1982. Quyết định của Thủ Tướng Malcolm Fraser khi đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho hằng trăm ngàn người Việt tỵ nạn được Úc chấp nhận cho định cư suốt thời gian 10 năm sau. Vì vậy đông đảo người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc đã coi ông như một Đại Ân Nhân.

Đến cuối năm 1981 trên nước Úc có 49,616 người Việt và đến cuối năm 1991 con số đã tăng lên đến 121,813 người. Hiện nay theo thống kê năm 2011, có 233,390 người khai là có tổ tiên là người Việt Nam. (SBS Census Explorer 2011: Victoria Community Profile 2011).

Theo thống kê, Mỹ là quốc gia đứng đầu sau đó là Úc và thứ ba là Gia Nã Đại, ba nước trong thế giới tự do đã cho định cư nhiều thuyền nhân Việt Nam nhất.

Theo kết luận của bài khảo cứu của Trần Mỹ Vân và Richard D. Nelson thực hiện năm 1980 về lý do đi tỵ nạn thì kết quả là: muốn có Tự Do, không muốn đi cải tạo, tránh cộng sản.

Vì đa số những người tỵ nạn ở Úc là những người ra đi sau ngày 30-4 nên không ít thì nhiều đều là nạn nhân của chính sách trả thù, bóc lột của cộng sản. Nếu không bị bắt đi tập trung cải tạo thì đi kinh tế mới nếu không bị đánh tư sán thì cũng bị kỳ thị vì gia đình ngụy quân, ngụy quyền hay gốc Hoa kiều. Hơn nữa vì vừa mới thoát được những khó khăn khổ ải trong trại tỵ nạn nên cũng giống như người Việt tại các quốc gia khác không ai muốn mang tiếng là qua sông rút cầu nên sự giúp đỡ cho những thuyền nhân đi sau đã là một điểm son của CĐ tại Úc.

Những buổi quyên góp tiền bạc, quần áo, sách vở, báo chí đã xẩy ra liên tục từ thập niên 70 đến những năm 90 trước khi các trại tỵ nạn bị đóng cửa ở Hongkong và khắp vùng Đông Nam Á. Đó là chưa kể đến những nhóm người Việt trẻ từ Úc đã cùng với những nhóm người trẻ khác đến từ nhiều các quốc gia trên thế giới vào làm việc thiện nguyện trong các trại tỵ nạn. Họ đã làm rất nhiều từ sáng đến tối, việc gì cũng làm từ hướng dẫn, an ủi vỗ về, điền đơn, thông dịch, hành chánh, dậy học, dậy hát, dậy múa, hộ sinh, cứu thương… Mới đầu các em chỉ định ở vài tuần hay vài tháng nhưng đã có những em ở lại đến năm, bẩy, mười năm.

Tại Phi Luật Tân, một quốc gia có chính sách nhân đạo nhất đối với thuyền nhân VN, chủ trương không cưỡng bách hồi hương đã có một luật sư trẻ TH từ Úc ở đó đến trên 10 năm để giúp đỡ đồng hương VN ngay cả những người có tiền án, rớt thanh lọc.

Từ Úc đã không có được những chiếc tầu đi tìm và cứu vớt người tỵ nạn như Cap Anamur, Ile de lumiere nhưng đến khi cả thế giới đều mệt mỏi vì thuyền nhân VN và đặt ra qui chế thanh lọc trước khi công nhận tư cách tỵ nạn của thuyền nhân thì nếu bên Mỹ có được SOS Boat People thì ở Úc cũng có Ủy ban cứu nguy người vượt biển cả hai tổ chức đều đã có người làm việc, tranh đấu khá hữu hiệu cho nhiều trường hợp rớt thanh lọc oan tại Hongkong và ĐNÁ.

Để nhớ ơn những quân nhân Úc và VNCH đã hy sinh trong cuộc chiến VN hầu như trên khắp nước Úc, tiểu bang nào có người Việt định cư là nơi đó có Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Úc Việt. Riêng tại TB Queensland CĐNVTD/Qld. còn được phép đặt bảng Tưởng Niệm tại ANZAC Square và trong Enoggera Barack nơi xuất phát chính của các chiến sĩ Úc khi họ đến tham chiến tại VN cũng như xây một Công Trường Tự Do để nhớ ơn tất cả các quân đội đồng minh khác như Mỹ, Đại Hàn, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi Luật Tân.

Đối với các đồng bào thuyền nhân và bộ nhân không may đã bỏ mình trên đường tìm Tự Do hiện ở Úc Châu đã có bốn Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân xây tại các tiểu bang lớn là New South Wales, Victoria, Tây Úc và Queensland. Cả bốn ĐTNTN này đều được ghi trong danh sách của Wikipaedia chung với gần 20 ĐTNTN khác trên thế giới.

Tại những Đài Tưởng Niệm này người Việt tại Úc cũng không quên cảm ơn dân chúng và chính phủ Úc đã mở rộng vòng tay cưu mang và giúp đỡ người tỵ nạn VN trong lúc khốn khó nhất và câu nói của Đại Thi Hào Hy Lạp Eupirides trong vở kịch Medea ghi trên Tượng Đài Thuyền Nhân “Không có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau mất nước” cũng đã gây được rất nhiều chú ý của dân chúng Úc.

Bắt đầu từ năm 2000, tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân (VKTN) do anh TĐ tại Melbourne chủ xướng đã tổ chức những chuyến đi cầu nguyện và viếng thăm di tích các trại tỵ nạn tại Mã Lai và Nam Dương kể cả Bidong và Galang nơi cả trăm ngàn người tỵ nạn đã đặt chân đến trước khi được đi định cư tại nước thứ ba. Thật là bùi ngùi cảm động khi nhìn thấy những ngôi chùa, nhà thờ trên đồi tôn giáo tại Bidong bây giờ bỏ hoang, tượng Phật và tượng Đức Mẹ đều bị hủy hoại. Ở Galang thì khá hơn vì tọa lạc trên một đảo lớn có đông người địa phương, nhưng tại nơi đây có những miễu nhỏ lập nên để thờ những người vô thừa nhận hay những người đã quẫn trí hủy mình khi bị rớt thanh lọc.

Nhưng công tác đáng nhắc đến ở đây của tổ chức VKTN là việc trùng tu lại những ngôi mộ trên các đảo có trại tỵ nạn kể cả những ngôi mộ chôn tập thể khi xác của các đồng hương xấu số tấp vào bờ, bãi biển. Những ngôi mộ này khá nhiều và đã là nơi yên nghỉ của từ 30 đến 70 người, cái lớn nhất trên 150 người. Công tác chôn cất lúc đó thường do dân chúng địa phương mà đa số là người Hoa đảm trách. Cho đến nay với sự phụ giúp tài chánh của người Việt hải ngoại các nơi, công tác trùng tu này gần đã hoàn tất.

Trở lại vấn đề định cư tại quê hương mới, tập thể người Việt đã thành lập được những cơ chế đại diện rất sớm tại các tiểu bang. Đến năm 1977 đã có cơ chế liên bang và năm 1981 thì chính thức thành lập Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu với các thành viên là CĐNVTD tại các tiểu bang. Công việc của cộng đồng nhiều, phức tạp, đa dạng như công tác điều hành những dịch vụ của một công ty lớn hay một chính phủ nhỏ chỉ có một điều khác là tất cả đều làm thiện nguyện dựa vào mẫu số chung Tỵ Nạn và Xây Dựng Cộng Đồng. Tất cả thành viên của BCH đều là người ăn cơm nhà vác ngà voi và phải giải quyết tất cả mọi công việc nội vụ (tổ chức Tết, Trung Thu, Giỗ Tổ, đóng góp với các hội đoàn tổ chức lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo..) sinh hoạt chính trị (đưa đồng hương về Canberra biểu tình mỗi năm nhân dịp Quốc Hận, chống nghị quyết 36, chống việc bán nước của VC và chính sách xâm lăng của TC) hoạt động giáo dục, thể thao (tổ chức các trường dạy Việt ngữ cho khoảng 1000 em từ 6 đến 16 tuổi vào mỗi sáng thứ bẩy, lễ phát thưởng cho các học sinh giỏi các trường trung học, lớp dạy tiếng Anh, máy vi tính cho các bác cao niên, lớp dạy kèm cho các em sắp tốt nghiệp trung học, tổ chức thi đấu các bộ môn thể thao cho các học sinh, sinh viên, thanh niên trong cộng đồng). Công việc của ban ngoại vụ (đại diện CĐ họp thường xuyên với các sở bộ, các sắc tộc bạn, cảnh sát địa phương, thỉnh thoảng họp với các cơ quan truyền thông để ngăn chận những bài báo, chương trình bất lợi cho cộng đồng hoặc cố vấn cho chính phủ mỗi khi có xung đột về mầu da, tôn giáo…) Ngoài những công việc thường niên BCH CĐ còn tổ chức những buổi thuyết trình, gây quỹ yểm trợ hoặc cứu trợ, tiếp đón những chính khách, những nhân vật lớn của CĐHN, các nhà văn nhà thơ, những buổi ra mắt sách, thơ…

Song song với sự lớn mạnh của CĐ dần dần xuất hiện nhiều cơ sở tôn giáo (chùa Phật giáo, PG Hòa Hảo, nhà thờ công giáo, tin lành, thánh thất Cao Đài), tổ chức chính tri, đảng chính trị, các hội cựu quân nhân liên bang và các tiểu bang, các hội CQN tính theo từng quân, binh chủng kể cả hội nữ quân nhân, các tờ báo ngày, tuần san, nguyệt san, các đài phát thanh, hội ái hữu, thân hữu. Tất cả đều công nhận tư cách đại diện của tổ chức CĐNVTD và hoạt động rất vui vẻ hài hòa dưới cái dù của CĐ. Vì làm việc trong một tinh thần dân chủ nên mỗi khi có một công tác lớn CĐ luôn luôn thành lập BTC, lắng nghe những ý kiến đóng góp của các HĐ, ĐT để bảo đảm sự thành công cho tập thể.

Có lẽ vì vây mà CĐ VN đâ đạt được nhiều thành quả được ghi nhận bởi báo chí và giới truyền thông Úc như ngay trong thập niên 80, dù chỉ mới định cư tại Úc trên dưới 10 năm số lượng người Việt mua được nhà đã ngang ngửa với người Ý và Hy Lạp, sự thành công của thế hệ thứ hai dựa vào tổng số sinh viên tốt nghiệp đại học tại các tiểu bang cũng đã được ghi nhận là cao so với các sắc tộc Đại Hàn, Ấn Độ và Trung Hoa tại Úc, sự hiện diện của người trẻ Úc gốc Việt trong mọi ngành nghề từ giảng sư đại học, bác sĩ chuyên khoa các ngành, thẩm phán, luật sư, trạng sư đến tài xế xe buýt, taxi, chủ vườn rau, vườn hoa, trái cây đủ loại. Tỷ lệ thất nghiệp của người Việt giảm nhiều so với thập niên 70 và một điều đã gây ra nhiều ngạc nhiên là sự xuất hiện của những doanh nhân triệu phú người Việt ngay từ thập niên 90.

Năm 2009 khi có nạn cháy rừng ở tiểu bang Victoria làm thiệt mạng 173 người, CĐ chúng ta dù chỉ có 220,000 người nhưng đã quyên góp được 2.2 triệu đô để ủy lạo các nạn nhân. Năm 2011 khi có lụt ở tiểu bang Queensland gây thiệt mạng cho 17 người, CĐVN chúng ta cũng quyên được trên 800,000 đô cho các nạn nhân. Mới đây nhất năm 2013 để giúp đỡ người Phi Luật Tân khi cuồng phong Taiyan gây thiệt mạng cho trên 3,500 người, chỉ trong ba giờ đầu sau khi phát động việc lạc quyên, riêng đồng hương tại Queensland đã góp được 24,000 đô và một tháng sau chuyển được cho Lãnh Sự Phi tổng cộng là 43,000 đô.

Khi nói đến năm 2015 là năm kỷ niệm 40 năm ngày mất nước và cũng là sinh nhật 40 của CĐHN, cựu Thủ Tướng M. Fraser của đảng Tự Do đã rất hãnh diện về sự thành công của CĐNV tại Úc và đa số dân chúng Úc cũng đều nghĩ là họ đã đúng khi họ quyết định cưu mang thuyền nhân VN trong những thập niên 70 và 80. Cựu Thủ Tướng Malcolm Fraser vừa ra đi ngày 20 tháng ba năm nay và ngày quốc táng đã có rất đông người Úc gốc Việt từ khắp các tiểu bang về đưa tiễn rất long trọng với nhiều biểu ngữ ghi ơn, các vị đại diện Cộng Đồng đã lên tiếng bày tỏ lòng tri ân thương tiếc cũng như sau đó tổ chức các thánh lễ cầu nguyện và vinh danh vị Ân Nhân của người Việt tại Úc.

Quả thật chúng ta đã có những thành công nhưng không phải trên mọi lãnh vực và phải thành thật mà nói, có những công tác chúng ta đã bắt đầu nhưng làm chưa đủ, và có thể làm nhiều hơn, khá hơn. Bây giờ chúng ta không nên bỏ thì giờ để bàn về những lý do mà chỉ nên nghĩ về những gì có thể làm được trong tương lai để khẩn cấp tìm giải pháp và hành động ngay vì nếu không sẽ mãi mãi không còn cơ hội nữa.

Theo thiển nghĩ chúng ta, nói chung là cả thế hệ thứ nhất và thế hệ một rưỡi đã không thành công trong việc chuyển đạt được lý tưởng quốc gia, tình yêu quê hương dân tộc, bản sắc tỵ nạn lại cho thế hệ thứ hai. Điều này không phải chỉ thấy ở Úc mà ở mọi nơi, mọi quốc gia có người Việt định cư và đã không phải chỉ xẩy ra cho người Việt mà cũng thấy ở tất cả những sắc tộc khác nhưng đối với người Việt chúng ta tình trạng nó cấp thiết hơn nhiều vì chúng ta là người tỵ nạn cộng sản.

Nguyên nhân chính là vì chúng ta đã không thành công trong việc khuyến khích con em học tiếng mẹ đẻ khi các em còn bé. Khi không nói thông thạo và hiểu rành rẽ các em thuộc thế hệ thứ hai dần dần mất đi cái hứng thú để học về văn hóa, lịch sử, phong tục, tập quán….Tại Úc dù đã nhìn thấy những khó khăn và cũng đã cố gắng tổ chức những lớp dậy Việt ngữ, những Đại Hội Văn hóa Giáo dục rất sớm nhưng cho đến hôm nay chúng ta phải thành thật công nhận rằng tỷ lệ người trẻ hay nói đúng hơn bây giờ, năm 2015 đã là trung niên (30-50 tuổi) có thể nói, đọc, viết, hiểu và thông thạo tiếng Việt quá thấp (dưới 20%). Vì khả năng nói tiếng Việt không khá nên thành phần này đã ít tham dự những buổi lễ quan trọng như Giỗ Tổ, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo… và những sinh hoạt khác như Tết Nguyên Đán, Trung Thu, Quốc Hận…và dần dần sau nhiều năm đã xa dần cội nguồn trở nên lơ là với những hoạt động để phát huy chính nghĩa quốc gia, tỵ nạn mà có người gọi là chính trị. Đó là không kể những thành phần vì sợ bị để ý, bị trả thù nếu sau này du lịch VN, hay vì lập gia đình với những người sắc tộc khác nên không có cơ hội để nói tiếng Việt.

Nếu thế hệ thứ hai đã như vậy thì liệu chúng ta có hy vọng gì ở thế hệ thứ ba, con cháu họ?.

Ngoài việc chống bạo quyền cộng sản Việt Nam, chúng ta còn đang phải đối đầu với nguy cơ bị lệ thuộc bởi Tầu cộng. Nguy cơ bị Bắc thuộc là một thảm họa của cả dân tộc, của nhiều thế hệ trong và ngoài nước, để chống lại bọn độc tài bán nước và bọn Tầu cộng chúng ta cần có một sự phối hợp bền bỉ, lâu dài của mọi tầng lớp mọi lứa tuổi, của nhiều thế hệ.

Theo thiển ý, ở thời điểm này, có lẽ chúng ta không làm được nhiều cho thế hệ thứ hai nhưng đối với thế hệ thứ ba những lớp dậy Việt ngữ mỗi sáng thứ bẩy không nên ngừng lại sau một học trình sáu năm mà nên được tiếp tục như là những lớp VIỆT NGỮ BỔ TÚC TRUNG CẤP cho các em muốn dùng Việt ngữ như một môn thi cuối học trình Trung học (Tú tài) hay muốn học thêm về văn hóa, lịch sử VN..Nếu bận rộn với chương trình học Đại học hay cuộc sống các em có thể nghỉ vài năm nhưng ít nhất khi muốn bổ túc, học thêm các em có chỗ để tìm về, để quay lại.

Đây là một công tác thấy có vẻ giản dị nhưng cần sự quyết TÂM và nhiều nhân, vật lực vì đây là một kế hoạch lâu dài và cần được tổ chức liên tục trong nhiều, nhiều năm. Chúng ta phải đề cao cảnh giác vì theo nghị quyết 36 của cộng sản VN chúng nó sẽ cố gắng len lỏi vào để nắm lấy việc này hầu có thể tiếp tục truyền bá lịch sử bóp méo, truyền thống bẻ quẹo trong kế hoạch trồng người của chúng.

Chúng tôi xin đưa ra đề nghị này và mong đợi sự góp ý của các vị trưởng thượng, những thành viên người Việt quốc gia trên thế giới.

Cộng đồng người Việt sau 40 năm tại các quê hương mới trên thế giới có đủ nhân và vật lực để tổ chức những lớp VIỆT NGỮ BỔ TÚC TRUNG CẤP này, câu hỏi đặt ra ở đây là Chúng ta có muốn làm hay không thôi?

Thiển nghĩ sau vấn nạn ngoại tệ gửi về VN, đây là một trong vài vấn đề cấp thiết cần được tất cả chúng ta những người quốc gia ưu tiên giải quyết.

Bùi Trọng Cường

Viết cho tháng tư đen 2015

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Lâm Vĩnh Bình GIÁ TỰ DO Truyền Thông 2014

Australian Government Dept. of Immigration and Citizenship. Community Information Summary 2012

Trần Mỹ Vân, Nelson Richard D.” A report on the settlement of Indochinese Refugees in Darwin, Northern Territory” In Australia-Asia Papers No 22, Feb. 1980

The Vietnamese Community in Brisbane 1975-1995 – Path to Integration. Desley Goldston

“Di tản và vượt biên” Bùi Trọng Cường - 2005.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.