Hôm nay,  

Trang Sử Việt: Vua Quang Trung: Nguyễn Huệ

28/08/201500:00:00(Xem: 11945)

Nguyễn Lộc Yên
(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt.)
________________

VUA QUANG TRUNG: NGUYỄN HUỆ (1753 - 1792)

Nguyễn Huệ còn tên là Nguyễn Quang Bình, ông là em của Nguyễn Nhạc, được anh phong “Long Nhương Tướng Quân” lúc 26 tuổi. Khi Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, phong Ông là “Bắc Bình Vương”. Ông là nhân tài kiệt xuất về quân sự, khi đang lâm trận gặp nguy biến, Ông liền biến hoá thế trận thích nghi tại chiến trường, nên luôn đem về chiến thắng vẻ vang.

Năm 1784, Nguyễn Ánh bị Vương đánh đuổi, cầu cứu quân Xiêm (Thái Lan) trở về chiếm Gia Định. Ông kéo quân vào Nam, phục binh ở Mỹ Tho ngày 18-1-1785, từ Rạch Gầm đến Xoài Mút. Quân Tây Sơn đánh tan tác 3 vạn quân và 300 chiến thuyền của Xiêm. Năm 1786, Vương đem quân ra Bắc “Phù Lê diệt Trịnh”, tiêu diệt trọn quân chúa Trịnh. Vua Lê Hiển Tông phong chức Nguyên suý Uy quốc công và Nguyễn Hữu Chỉnh làm mai, vua Lê gả Công chúa Lê Ngọc Hân cho ông.

Ngày 24 tháng 11 Mậu thân (1788), Vương được tin quân Thanh lấy danh nghĩa “phù Lê” đã vào Thăng Long, khí thế rất hung hãn. Vương đang nghĩ kế sách đối phó thì các tướng đồng tâu: “Chúa công với vua Tây Sơn có sự hiềm khích, đối với ngôi chí tôn, lòng tôn thờ của mọi người chưa vững bền, nay nghe quân Thanh sang đánh càng dễ sinh ra ngờ vực hai lòng. Vậy xin trước hết hãy đăng quang (lên ngôi vua), ban lệnh ân xá thiên hạ, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc cũng chưa muộn (Hoàng Lê Nhất Thống Chí: HLNTC)”. Vương chuẩn y, làm lễ tế cáo Trời đất tại Bàn Sơn (phía Nam núi Ngự Bình), trước lễ đăng quang, Vương đặt đế hiệu là Quang Trung. Hôm ấy là ngày 25 tháng Chạp Mậu Thân (1788). Từ Bàn Sơn, đoàn quân thủy bộ của Vua rầm rộ tiến ra Bắc. Ngày 29 tháng Chạp, đại quân tới Nghệ An, Vua cho tuyển thêm lính mới, quân số cộng lên đến 10 vạn người và tượng binh được vài trăm. Vua nảy ra sáng kiến để cuộc Bắc tiến thần tốc, cho hợp ba người làm một tốp, rồi lần lượt thay phiên để võng nhau. Nhờ sáng kiến kỳ diệu này và quân Tây Sơn dùng bánh tét và bánh tráng làm thực phẩm để khỏi nấu nướng, nên di chuyển rất nhanh và đỡ mệt nhọc.

Khi đến núi Tam Điệp (Ninh Bình giáp ranh Thanh Hóa). Tư mã Sở và Nội hầu Lân ra đón, xin chịu tội đã rút lui khi giặc đến Thăng Long. Vua Quang Trung mỉm cười phân tích tình hình: “Nếu các tướng cố thủ Thăng Long thì cũng thất bại thôi, nên kế sách rút quân của Ngô Thời Nhậm là đúng”.

Ngày 30 tháng Chạp, Vua cho mở tiệc khao quân, chia quân làm 5 đạo, vua bảo các tướng: “Ta với các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng tết trước, đến tối 30 tết lập tức lên đường, hẹn đến mùng 7 tết năm mới, thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng, các người nhớ lấy đừng cho ta là nói khoác”.

Vua suy nghĩ kế sách, rồi bảo: “Chúng nó sang phen này là mua lấy cái chết. Ta đến đây, thân coi việc quân, đánh giữ đã có kế sách, chỉ trong mười ngày ta sẽ quét sạch quân Thanh. Nước Tàu lớn bằng mười nước ta, quân Thanh bị thua sẽ thẹn, đem quân qua đánh tiếp để rửa nhục, cứ thế binh đao liên tục làm khổ muôn dân bá tánh. Khi chiến thắng xong, ta giao cho Ngô Thì Nhậm nói năng khéo léo với nhà Thanh để hoãn việc chiến chinh, đợi mươi năm nữa nước ta phú cường, ta không e dè chúng nữa”. Vua cho gấp rút tiến quân, để nuôi lòng kiêu căng của giặc, Vua cử sứ đoàn Trần Danh Bính đến Thăng Long gặp Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị, ngỏ ý cung thuận với “thiên triều”. Tôn Sĩ Nghị xé thư, giết Trần Danh Bính và giam tất cả nhân viên sứ đoàn lại, rồi truyền hịch kể tội Nguyễn Huệ và nói sẽ đánh tới Quảng Nam cho sạch cả gốc lẫn ngọn.

Khi bọn thám tử của quân Thanh thấy quân Tây Sơn tiến ra Bắc, thì kinh hồn mất vía liền chạy trốn bị quân Tây Sơn đuổi theo đến Phú Xuyên (Hà Đông) thì chúng bị bắt hết.

Mồng 3 tháng Giêng Kỷ Dậu (1789), nửa đêm quân Thanh đang ngủ say trong đồn Hà Hồi, bỗng nghe có binh mã tiến đánh ầm ầm, nên quá khiếp sợ, ngơ ngác xin hàng. Trong khi ấy, Vua cử Đô đốc Long chỉ huy quân ta chận đánh ở Khương Thượng, Quân Thanh bị đánh bất ngờ nên bị tan tác.

Canh năm, ngày mồng 5, vua Quang Trung cưỡi voi thúc quân xung trận đánh đồn Ngọc Hồi; đi trước ngài hơn một trăm voi trận. Đạo tượng binh như một đoàn chiến xa phá đồn trại rất mạnh. Quân Thanh ứng chiến bằng kỵ binh, ngựa gặp voi hoảng sợ, rống lên rồi chạy tán loạn. Quân ta lấy 60 tấm ván gỗ, cứ 3 tấm xếp lại thành 1 bộ, ngoài phủ rơm trộn với bùn, rồi 10 người khiêng đi trước, lưng đeo đoản đao, theo sau 20 khinh binh tiến thành hàng chữ nhất. Quân ta liền lăn xả vào trận chiến phá đồn, tràn vào như nước lũ.

Súng nổ vang rền, lẫn lộn với tiếng trống, tiếng thanh la và tiếng la hét của quân Tây Sơn, gây nên không khí tưng bừng lẫn khốc liệt. Quân Thanh bị đại bại, hoảng hốt cắm đầu cắm cổ bỏ chạy. Đồn Ngọc Hồi thất thủ. Quân chiến thắng của ta, rầm rộ, hùng dũng tiến vào thành Thăng Long.

Quân Thanh bị tổn thất quá nửa, Đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Triều Long, Tả dực Thượng Duy Thăng... bỏ mạng tại trận. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống không chạy trốn kịp, phải thắt cổ tự vẫn trên một cành đa.

Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở trong thành Thăng Long đang yến tiệc vui xuân, tuyệt nhiên chưa có tin cấp báo. Ngày mùng 4, bỗng thấy quân đồn Ngọc Hồi vào cấp báo: “Tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất lên. Quan quân đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp, bị chết và bị bắt hết”. Tôn sĩ Nghị hoảng hốt sợ mất vía, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhắm hướng bắc mà chạy. Quân Thanh ở các doanh trại khác nghe tin đều tan hồn mất vía thất kinh bỏ chạy, tranh nhau lên cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống sông mà chết rất nhiều, lát sau cầu bị sập, quân sĩ của giặc đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà, vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa (HLNTC).

Cuộc chiến kéo dài suốt đêm, tới sáng thì kết thúc. Quân Thanh như ong vỡ tổ trốn chạy tứ tung, vua Quang Trung đã tiên liệu, phục quân từ Thanh Trì đến Hà Đông, chỗ thì đón đánh chỗ thì làm nghi binh, từ làng Đại Áng sang đến làng Quỳnh Đô, khiến cho hàng vạn quân Thanh, lớp bị chết vì voi giày, lớp bị quân Tây Sơn đón giết nằm la liệt khắp nơi.

Khoảng giờ Thân (4 giờ chiều) mồng 5 Tết, 20 vạn quân Thanh đã bị tan tác. Vua Quang Trung, mặc chiếc áo bào đỏ, đã qua nhiều trận huyết chiến nên đổi ra màu đen cháy vì hơi khói của thuốc súng. Ngài cùng đại quân và 80 thớt voi tiến vào kinh đô Thăng Long, đúng như lời của nhà vua đã tuyên bố tại núi Tam Điệp.

Khi mới đến Tam Điệp, Vua Quang Trung đã tính đến việc giảng hòa với nhà Thanh sau khi thắng trận. Vì vậy, Vua đã ra lệnh cấm giết hàng binh. Quân Thanh thấy khoan hồng, ra hàng hơn 800 người, đều được cấp thực phẩm và quần áo. Vua phủ dụ chúng lời lẽ hào hùng, chính nghĩa đanh thép, nhưng chí tình chí lý: “Việc quân là cái độc của thiên hạ. Gặp giặc thì giết, lẽ đó là thường. Bắt được mà tha, xưa nay chưa từng có. Trẫm theo lẽ trời và thuận lòng người, lấy việc binh nhung mà định thiên hạ. Việc Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị của các ngươi sức hèn tài mọn, không biết tự lượng đem hai mươi chín vạn quân sang cửa quan, vượt suối trèo non, vô cớ xông vào chỗ hiểm để gây binh hấn, khiến cho các ngươi một lũ dân đen vô tội phải nằm sương gối tuyết và chết bởi đầu tên mũi đạn. Đó là tội của Tổng đốc nhà các ngươi. Trẫm trỏ cờ lệnh, chỉ trong một trận quét sạch các ngươi như kiến cỏ; kẻ đã chết trận xương chất thành núi. Những kẻ bị bắt nơi trận, hoặc thế bách xin hàng, đáng lẽ theo quân luật là chém ở pháp trường. Song vì thể tấm lòng hiếu sinh của trời đất và lấy tấm lòng bao dung, trẫm tha tính mạng các ngươi và cho các ngươi được sung vào các hàng quân hoặc cấp lương hướng cho, để các ngươi khỏi bị khổ kẹp cùm, đánh đập. Đấng vương giả coi bốn bể như một nhà, các ngươi nên thể lòng trẫm mà bỏ sự ngờ sợ để báo ơn trẫm.” Sau đấy, những tù binh này đều được trả về Tàu.


Sau chiến thắng Xuân Kỷ Dậu, vua Quang Trung cầu phong, tháng 7 năm Kỷ Dậu (1789) vua Càn Long liền sai sứ đem chiếu đến Thăng Long phong Quang Trung “An Nam Quốc Vương”. Và mời Quang Trung diện kiến tại Thanh triều.

Vua Quang Trung là một nhà cách mạng, lo canh tân đất nước. Vua nghe ai hiền tài, thì mến mộ và cho mời về lấy lễ tân sư, cùng lo toan việc nước. Vua cho Nguyễn Thiếp xây tại Nghệ An thành Trung Đô, Thăng Long đổi thành Bắc Thành. Tuyển mộ binh sĩ, khai khẩn ruộng đất, mở mang giao thương, đúc tiền “Quang Trung Thông bảo”, bỏ cấm đạo Thiên Chúa.

Đáng chú ý là Vua Quang Trung đã truyền lệnh “Trọng chữ Nôm”, biểu lộ một tinh thần quốc gia mãnh liệt, một ý niệm cách mạng rất thực tế. Dù trong khoa cử, học hành chữ Nho vẫn còn dùng, nhưng trong chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú thì chữ Nôm đã được chú ý vào một địa vị quan trọng.

Vua Quang Trung cho vẽ lại bản đồ Việt-Hoa để rửa hận nghìn thu là đất đai Đại Việt bị mất vì phương Bắc xâm lấn. Việc này có thể xảy ra binh đao, nên Vua tính chuyện đánh Thanh, cho quấy rối nội địa nước Tàu bằng cách ngầm giúp đảng “Thiên Địa Hội” của bọn quan lại cũ nhà Minh, đang bí mật “phản Thanh phục Minh”. Các biên thần nhà Thanh tuy biết Đại Việt đã bí mật nhúng tay, nhưng phải bấm bụng chịu, vì thấy lực lượng quân sự nước ta đang phát triển mạnh.

Để mở mang bờ cõi, Vua bảo Ngô Thì Nhậm viết biểu gửi vua Thanh, lấy cớ xin cầu hôn Công chúa và xin đất làm đô. Vua hạ sắc chỉ cho Võ Văn Dũng: “Sắc truyền cho Hải Dương Chiêu viễn Đô đốc tướng quân Vũ quốc công được gia phong chức Chánh sứ đi sứ nước Thanh, được toàn quyền trong việc đối đáp tâu xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây để dò ý và cầu hôn một vị Công chúa để chọc tức. Phải thận trọng đấy! Tính toán trong việc dụng binh đều ở chuyến đi này. Người làm tiên phong (đánh Tàu) chính là khanh đấy!”.

Tiếc thay! Sau đấy, Vua lâm bệnh nặng, truyền Trần Quang Diệu và các quan đến dặn dò: “Ta đã mở mang bờ cõi, dựng nghiệp vững vàng, sự sống chết không ai khỏi được. Thái tử Nguyễn Quang Toản tư chất thông minh, nhưng tuổi còn non nớt. Phía Nam có quân Gia Định (Nguyễn Ánh) là quốc thù, mà Thái Đức ham dật lạc và cũng già rồi, không nghĩ hung hiểm. Khi ta mất rồi, không nên tang chế rùm beng, làm đơn giản, lo chôn cất sớm, các ngươi hợp sức giúp Thái tử dời đô về Vinh (Nghệ An), để khống chế thiên hạ, bằng không các ngươi không có đất chôn thây”. Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý ((16-9-1792 DL), Vua băng hà, thương tiếc thay!!!

*- Thiết nghĩ: Khi vua Quang Trung còn sống, các danh sĩ đương thời, (kể cả những kẻ thù của ông) coi ông là một bậc phi thường. Đem quân ra bắc nhanh như cuồng phong, đem quân vào nam như sấm sét, giết giặc như lấy đồ trong túi. Các sử gia triều Nguyễn cũng phải thán phục: “Nguyễn Huệ em Nguyễn Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, gian hùng, thiện chiến, ai nhìn cũng phải sợ”. Nhưng kẻ chiến thắng viết lại lịch sử, nên nhà Tây Sơn (vua Quang Trung) dù lo nước thương dân; các tướng lãnh Tây Sơn trung liệt và độ lượng. Vẫn bị các người viết sử triều Nguyễn xuyên tạc có ác ý?!.

Việt Sử Toàn Thư viết: “Chính sách nhân hậu của triều đại vua Quang Trung được nhiều người ngoại quốc tìm hiểu và ca ngợi, trong đó có nhà du hành người Anh là ông Crawford đến viếng nước ta vào năm 1822, là năm vua Gia Long đã mất, và Minh Mạng đang trị vì. Ông phản bác những lời phê bình bất công của một số sử gia Tây phương đối với nhà Tây Sơn”. Ông Crawford viết: “Bảo rằng nhân dân khao khát dòng vua chính thống, được khôi phục như một số người Tây phương chỉ biết có tán tụng vua Gia Long, chưa chắc đã đúng và triều Tây Sơn đâu có thất nhân tâm như thế. Tôi được một số nhà buôn Trung Hoa đã sinh sống lâu năm tại xứ này, dưới quyền vua chúa nhà Nguyễn và cả dưới quyền nhà Tây Sơn, đoan chắc với tôi rằng các nhà cầm quyền Tây Sơn cai trị dân chúng còn công bằng và khoan hòa hơn nhà vua hiện tại (vua Gia Long và vua Minh Mạng)...”.

Hoàng đế Quang Trung so sánh người cùng thời là Hoàng đế nước Pháp Nã Phá Luân (Napoléon Bonaparte: 1769-1821), Napoléon đã làm Hoàng đế nước Pháp (1804-1815), được Âu châu ca tụng là một nhà quân sự và chính trị kiệt xuất, nhưng Napoléon tới mấy lần bị bại trận, như: Cuộc chiến kéo dài ở bán đảo Iberia và cuộc chiến với nước Nga năm 1812, Napoléon đã bị khốn đốn. Đến năm 1813, quân Liên minh xâm chiếm nước Pháp, tại trận Leipzig, Napoléon bị bại và bị đày đến đảo Elba. Khoảng một năm sau, Napoléon thoát khỏi đảo Elba và trở lại nắm quyền, nhưng cũng bị thất trận ở Waterloo vào tháng 6 năm 1815. Và Napoléon bị giam trên đảo Saint Helena cho đến chết! Ngược lại, Hoàng đế Quang Trung từng đánh tan tác quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện, đánh bại quân Nguyễn Ánh dù được quân Pháp giúp đỡ có vũ khí tối tân. Sau đấy chỉ huy 10 vạn quân đánh tan tác trên 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh (Tàu) tại Thăng Long vào Xuân Kỷ Dậu (1789). Hoàng đế Quang Trung đánh hàng trăm trận chưa bao giờ bị chiến bại.

Cảm Phục: Quang Trung Hoàng Đế

Quang Trung Hoàng Đế, sắt son lòng
Danh tiếng lẫy lừng, khắp Á Đông
Nhanh nhẹn đuổi Xiêm, như sấm sét
Lẹ làng diệt Trịnh, tợ cuồng phong
Ngọc Hân đính ước, vương cầm sắt(a)
Nguyệt Lão xe duyên, thắm chỉ hồng(b)
Tam Điệp hào hùng, ban chiến lược
Tiến quân thần tốc, đến Thăng Long

Đầu Xuân Kỷ Dậu, đến Thăng Long
Một trận, quân Thanh tan tác vong
Lưỡng Quảng hỏi han, thu phục lại
Việt, Tàu bàn bạc, kết giao xong
Quốc gia sang sửa, lo non nước
Bờ cõi mở mang, giữ núi sông!
Trời đất trớ trêu gây thảng thốt
Vua băng đột ngột, đớn đau trông!!!
_________________

(a) - Cầm sắt: Là hai thứ đàn, đàn cầm và đàn sắt, do câu “Yểu điệu thục nữ, cầm sắt hữu chi”. Nghĩa là: Vợ chồng hoà hợp như khảy đàn sắt, đàn cầm. Từ đó chữ cầm sắt là hoà hợp vợ chồng.

(b) - Chỉ hồng: Truyền thuyết về Nguyệt Lão. Chàng trai tên Vi Cố đi săn, bị lạc trong rừng, gặp một ông lão tướng mạo phi phàm, tay cầm sách và một cái giỏ đựng chỉ đỏ, đang ngồi xem dưới trăng. Vi Cố mon mem đến hỏi: “Thưa ông, xin cho biết quí danh và trong giỏ có nhiều chỉ đỏ để làm chi ?”. Ông lão mỉm cười: “Ta là Nguyệt Lão, chỉ đỏ này dùng để xe duyên”. Vi Cố hỏi tiếp: “Vậy ông có thể cho biết về lương duyên của con sau này được không?”. Ông nói: “Người vợ tương lai của ngươi, là cô be ăn mày ở chợ Đông”. Vi Cố về, tìm đến chợ thấy cô gái rách rưới, dơ bẩn, bèn lấy cây lén đập vào đầu mong cô chết, để khỏi làm vợ mình. Năm năm sau, chàng cưới được một cô gái duyên dáng, nàng là con của một vị quan. Đêm động phòng, chàng nâng niu tân nương, thấy có vết sẹo ở đầu, chàng hỏi: “Em bị rủi ro, té ngã hay ai nhẫn tâm đã gây em vết sẹo này?”. Nàng thỏ thẻ: “Lúc trẻ hàn vi, ở nơi chợ Đông bị người ta đánh lén chết ngất, rồi cha nuôi, là một vị quan đi ngang qua, thấy vậy đem em về nuôi khôn lớn”. Vi Cố nghĩ và tin có “lương duyên tiền định”.

Nguyễn Lộc Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.