Sau thời gian sống ở trại tỵ nạn, gia đình tôi bị Mỹ xù lên xù xuống nên phải đi Úc. Tưởng là chẳng may mà lại hóa ra may. Tôi có người bạn già cũng hoàn cảnh giống hệt tôi, 6 đứa con, lớn tuổi, đi sang Mỹ, sống chẳng có tiền hưu phải nhờ vào tem phiếu khổ vô cùng tận. Còn gia đình tôi, vừa tới Hostel hôm trước là hôm sau được lãnh tiền. Lúc đó, bà xã tôi không hiểu cứ tưởng tiền đó là tiền họ cho vay sau này mình đi làm là phải trả lại nên bà giữ không cho tiêu pha gì. Tôi giải thích mấy bà cũng chả chịu tin.
Thời gian đó ở trong Hostel buồn mà lại hóa ra vui. Bây giờ nghĩ lại thấy cái thời đó mà hóa an nhàn nhất. Cơm thì đã có họ lo. Cứ ngày 3 bữa, mang chén đũa xuống lấy đồ ăn, ăn no thì thôi. Thích món nào là chịu khó xếp hàng làm thêm chầu nữa. Tôi còn nhớ là lúc đó, có mấy ông bạn trẻ, cũng dân tỵ nạn mới tới Úc, đã ra ngoài đi làm có tiền rồi, nhưng thỉnh thoảng vẫn nhào vô Hostel để ăn ké. Mấy bà nhà bếp người Úc béo nung núc, đi ra đi vô ngó tóc đen mình thằng nào cũng giống y chang nhau, chẳng biết ai thực ai hư. Cứ thấy dơ đĩa là múc lấy múc để, miệng cười toe toét. Thế mới biết nước Úc thuở đó thiệt thanh bình chứ đâu có như bây giờ, đúng là cái khó nó bó lòng nhân ái.
Tuy đồ ăn thức uống của Hostel ê hề, nhưng mình là người Việt nên thiếu cơm thì bất thành nhân dạng. Vì vậy nên cái khoản đầu tiên phải mua lúc đó là chiếc nồi điện để nấu cơm, nấu mì. Luật lệ của Hostel cấm nghiêm ngặt không cho mình nấu nướng trong phòng. Nhưng cấm là chuyện của họ. Cộng sản cấm mình trăm phương ngàn kế, mà rồi cuối cùng mình cũng lừa được chúng nói để vượt biên, thì nhằm nhỏ gì ba cái cấm lẻ tẻ ở Úc. Tôi có cả ngàn lẻ một cách qua mặt họ cái vù.
Ở trong Hostel được khoảng hơn tháng, thì thằng con trai lớn của tôi kiếm được việc làm. Hai tuần sau, nó xin với ông chủ cho tôi vào làm chân tạp dịch, giống như sai vặt vậy. Chủ nó bảo gì tôi làm nấy. Làm xong là có quyền ngồi chơi. Đi làm thì chỉ phải mang có cơm trưa. Còn bơ sữa, đường, cà phê cà pháo hãng lo tất tật. Thiệt sướng thì thôi. Những thứ đó ở Việt Nam kiếm muốn nổ con mắt, thèm muốn khô cả cổ, ở đây thì ê hề. Thiệt mấy tháng đầu, mình dùng những thứ đó mà cứ thấy mắt cay xè, thương cho người Việt mình khổ sở thiếu thốn hết năm này sang năm khác, hết đời này sang đời khác...
Thì sống ở trên đời ai chả biết đến câu, bĩ cực rồi đến hồi thái lai. Sau cơn mưa trời lại sáng mà. Biết vậy, nói vậy đó, nhưng ở cái nước Việt Nam của mình thì suốt mấy ngàn năm, chỉ thấy rặt mưa không à. Tôi nghĩ có lẽ tổ tiên mình từ mấy ngàn năm trước cũng đã nói câu bĩ cực thái lai, nhưng đến đời ông cố tôi, đời ông cụ thân sinh ra tôi và đến cả đời tôi thì cũng vẫn nói vậy mà chả thấy thái lai bao giờ cả. Khổ truyền kiếp mà. Nếu hai vợ chồng tôi không liều bán căn nhà lấy hai chục cây vàng, thì chắc con cháu tôi rồi cũng vĩnh viễn chẳng ngẩng mặt ngẩng mày lên được.
Thời đó, đi làm lương ít ỏi nhưng đồng tiền có giá hơn bây giờ nhiều. Đi làm vất vả nhưng cầm đồng tiền trong tay cũng mát ruột mát gan. Cả nhà hai bố con đi làm, mỗi tuần cũng đưa về cho bà xã được $350 đô. Mướn nhà lúc đó chỉ có vài chục bạc. Nhà của hội Smith Family nên tiền thuê rẻ lắm. Đằng sau nhà có một chiếc vườn rộng mênh mông, cắt cỏ mệt nghỉ. Thấy vườn tược rộng rãi, đất đai phì nhiêu lạ lùng, tôi mới bàn với bà xã canh tác. Nhưng canh tác cái gì đây" Mấy thứ rau cỏ của Úc thì ê hề ngoài shop. Cứ chiều tối thứ năm đi về ghé qua chỉ nhặt thứ nó vất đi là ăn mệt nghỉ, nói chi chuyện trồng tỉa. Thế rồi một ngày nọ, đi tiệm Việt Nam, trời lạnh lẽo run cầm cập, bỗng thấy có bó rau muống loe ngoe mấy ngọn mà họ bán một đồng bạc, tôi giật mình. Chu choa, rau muống họ bán thế này mà mình trồng được một vườn rau muống thì kiếm tiền phải biết. Tôi mới hỏi họ, rau muống họ lấy ở đâu, giá bỏ vô bao nhiêu. Họ bảo, có một số người trồng rau trong nhà rồi bỏ mối giá 80 xu một bó. Ngoài ra còn những thứ như hành, ngò, hẹ, rau thơm cũng đắt đỏ lắm.
Hỏi vài tiệm chạp phô của người Việt mình, tôi mới quyết ý tìm cách trồng rau để kiếm thêm. Biết vậy, nhưng kiếm đâu ra hột rau muống" Vả lại trời lạnh lẽo làm sao trồng được cái thứ chỉ sống vào mùa hè" Tôi đem ý định của mình bàn với bà xã và mấy đứa con thì chúng mới có sáng kiến làm nhà bọc giấy và bao nylon. Thời đó, tôi chưa biết đến hai chữ "nhà kiếng". Còn hạt giống rau muống thì tôi nhớ tới thằng bạn trên Darwin. Nghe đâu trên đó khí hậu nóng bức, trồng rau muống quanh năm nên nó chẳng thiếu thứ rau gì. Tôi viết thư hỏi xin nó, lập tức nói gửi ngay qua bưu điện một bịch đủ gieo cả vườn vài đợt cũng chưa hết.
Thế là Chủ nhật tuần đó, tôi xoay trần cuốc đất, lên luống, dựng hàng rào, đóng khung, che gió để trồng rau. Trời lạnh mà toát cả mồ hôi. Bà xã thấy tôi chí thú lo chuyện trồng tỉa thì cũng vui vẻ chạy ra chạy vô lúc mang cho lon bia, lúc đưa gói thuốc. Thấy vợ xun xoe bên cạnh như vậy, tôi cũng khoái lắm, hai lỗ mũi phập phồng, sướng tít cung thang.
Vậy là vụ mùa rau muống mùa đông năm đó, gia đình tôi kiếm được gần 800 đô. Một số tiền lớn không ngờ. Mỗi lần hái rau, trời lạnh, tay cóng cứng lại như đá. Hái xong, bó lại thành từng bó rồi đem bỏ shop lấy tiền, được bao nhiêu bỏ vô chiếc thùng sắt tây lấy từ nhà băng về. Coi như bỏ ống đó mà. Vậy mà cuối vụ đổ ra được tới gần 800 đô thì quả là mừng. Đó là chưa kể chuyện mỗi lần đi bỏ mối rau, tiền thu được, tôi cũng tiêu vô lúc nhiều lúc ít không nhất định.
Được vụ mùa rau muống, sau tôi mới nghĩ cách trồng thêm đủ thứ rau cỏ Việt Nam mình. Từ ngò gai, húng quế, ngò ôm, cho đến rau muống, rau cải, bạc hà... Thậm chí cả giống rau cần nước hiếm hoi, cọng nào cọng nấy trắng ngồn ngộn tôi cũng kiếm được giống. Đào đất, đổ xi măng thành một cái ao rồi đổ đất bùn, đổ nước, đổ phân rồi trồng rau cần. Rau mọc lên đến đâu, thêm nước vô đến đó. Chẳng bao lâu, cắt ngọn rau cần dài tới gần xải tay, trông thiệt ngon con mắt. Đem bỏ mối, ai cũng trầm trồ khen, ngỡ mình vừa chở máy bay từ Việt Nam sang...
Lúc đầu nghĩ mình là đàn ông nam nhi mà đi bỏ mối rau thì cũng kỳ kỳ. Nhưng sau nghĩ đến người thân của mình còn ở Việt Nam, rồi nghĩ thương vợ thương con nên tôi chẳng quản ngại chuyện chi. Thế là cứ chiếc xe đẩy nho nhỏ, tôi chất rau vô đó, đem bỏ các tiệm rau tại các vùng suốt từ Cabramatta đến Bankstown, Marrickville rồi trở ngược lên tận City. Về sau, công việc đòi hỏi càng ngày càng nhiều thì tôi nghỉ làm việc ở hãng, lo tập trung vào chuyện canh tác.
Có trồng rau tôi mới thấy nhớ nhung quê nhà lạ lùng. Chẳng biết những người Việt khác khi gắp ngọn rau đưa lên miệng có nghĩ ngợi chi không, chứ tôi mỗi khi ra vườn nhìn thấy rau là đầu óc của mình cứ mụ mẫm, chìm đắm vào những câu chuyện, những hình ảnh của quê cha đất tổ.
Mà nói của đáng tội, cũng ngọn rau muống, rau ở Việt Nam nó khác rau trồng ở đây, qúy vị ạ. Tôi có nói chuyện đó với mấy người bạn, thì họ cười bảo tôi là thằng dở hơi. Ở bên này, dư thừa thịt cá nên ăn thứ gì cũng không biết ngon, chê rau ở đây là phải. Tôi thì tôi không đồng ý với họ ở chỗ đó. Cây rau, cây trái, cũng như loài vật, con người, lớn lên ở đâu thì thích hợp ở đó. Đem cây Việt Nam sang đây trồng, chắc chắn nó phải khác với Việt Nam. Cứ như con gà nuôi ở dưới quê, thịt ăn cũng khác con gà nuôi chuồng. Người Việt mình cũng vậy. Ở Úc riết là rồi thế nào một vài trăm năm nữa, người Việt ở Úc cũng khác giống với người Việt lớn lên ở Việt Nam cho mà xem.
Tôi có một người bạn. Ông ở tận miền quê trên Queensland. Cả năm trời mới đến thăm ông ta được một lần. Nhà ông ta trên đó thiệt đã thì thôi. Có vườn cây ăn trái, có ao thả cá, có cây mít bên hồi, chuồng cu dưới mái, nhà có mái ngói, có bể chứa nước mưa, có vườn cây cảnh, có hòn non bộ. Nói tóm lại là ở Việt Nam trước đây ông có cái gì thì ở bên Úc này ông có y chang cái đó. Được cái thằng con rể ông là người Úc làm nghề lái tầu biển, đi đây đi đó, nên nó chiều ông mua đủ thứ ngon vật lạ cho ông.
Cách đây hai năm, tôi có ghé thăm ông mới được nghe câu chuyện lý thú như thế này. Ông hỏi tôi có biết nước không chân là nước thế nào không. Tôi nghe hỏi thì ú ớ vì cả đời xưa nay có bao giờ nghe đến ba chữ "nước không chân". Ông mới cười ha hả rồi giải thích cho tôi nghe nước không chân là nước mưa mình hứng giữa trời vậy đó. Nói rồi ông lôi tôi ra coi chiếc bể nước của ông, toàn nước mưa trong veo. Ông bảo ông rất kỵ dùng nước máy. Tất cả mọi sinh hoạt của ông có liên quan đến nước là ông đều dùng nước mưa. Từ tắm giặt, đến nước uống, thổi nấu, đánh răng, rửa mặt, ông đều dùng nước mưa. Ông bảo tắm nước máy, da ông cứ bị rít lại rồi lông, tóc thi nhau rụng. Tôi thì tôi không tin. Ông lại còn cam đoan với tôi, nước mưa ở Việt Nam ngọt hơn nước mưa ở Úc.
Hai năm trước, nghe ông nói vậy, tôi gật đầu cho ông vui lòng, nhưng trong bụng thì không tin. Theo tôi nghĩ thì nước mưa ở đâu mà chả giống nhau. Nhưng bây giờ thì tôi thấy qủa thực, ông có lý. Lúc đó, nghe ông nói, tôi mới bảo ông, tôi có nghe chuyện một nhà văn hay nhà thơ nào ở Hà Nội có làm thơ khen trăng nước Nga tròn hơn trăng nước Mỹ.
Nghe tôi nói, ông trầm ngâm rồi ông gật gù bảo tay đó nói vậy nghe thì có vẻ tuyên truyền bậy nhưng dám có chuyện trăng ở nơi này tròn hơn trăng ở nơi khác thật. Tôi không tin. Ông mới chỉ tay vào trái tim rồi bảo, tròn hay méo nó ở chỗ này, chứ không phải ở chỗ này. Nói đến đó, ông chỉ tay vào đầu của ông rồi ngửa mặt cười ha hả. Ông tuy già hơn tôi, nhưng khi cười, hàm răng ông trắng bóng, đều tăm tắp như bắp non, trai trẻ hiếm người có được hàm răng đẹp và khỏe như ông.
Bây giờ khi tôi viết bài này cho qúy báo, tôi mới nhớ lại chuyện ông nói và thấy ông có lý. Cái có lý của ông không phải chỉ ở con tim mà còn ở những điểm khoa học nữa. Ở một vùng đất chỉ có sông nước mênh mông, màu xanh trù phú trải dài tít tắp đến tận chân trời như Miền Nam quê mình, thì nước mưa ngọt ngào hơn nước mưa ở Úc là chuyện hợp lý. Ở Úc, đất sa mạc, cây cối mọc lơ phơ, sông ngòi khô cạn. Nếu có hơi nước bốc lên thành mây thì cũng bốc lên phần lớn từ nước biển và sông ngòi nước lợ. Như vậy, khi mưa, nước mưa ở đây lờ lợ có vị mặn cũng phải.
Ngay như ngọn rau cần, ở đây tôi trồng có thể to, dài và trắng không kém gì cần ở Việt Nam. Nhưng nếu đem phân chất, tôi dám chắc, cần Việt Nam ngon hơn, ngọt hơn, tinh khiết hơn cần ở bên này. Thổ nhưỡng, khí hậu, nước nôi, rồi phân bón, hai nơi đều có những khác biệt, thì làm sao chúng không khác nhau" Rồi người Việt mình ở đây dù có cùng ăn cơm, ăn rau, húp nước mắm, ăn mắm tôm mắm tép như người Việt ở Việt Nam, nhưng khí hậu, thổ nhưỡng và ngay cả hạt gạo, ngọn rau, con tép ở Úc cũng khác với Việt Nam thì tôi tin chắc một vài trăm năm nữa, người Việt ở đây sẽ phải khác với người Việt ở quê nhà.
Tôi không hiểu những người Việt ở lứa tuổi tôi đang sống rải rác ở hải ngoại nghĩ sao, chứ riêng tôi, tôi thấy nhiều khi nhìn những cô gái Việt Nam ở ngoài này mặc áo dài, nó làm sao sao ấy. Cũng duyên dáng, cũng dễ thương, cũng rất Việt Nam khiến tâm hồn tôi xao xuyến chi lạ. Nhưng nó vẫn có vẻ cứng, thô, không tự nhiên như những tà áo dài quyện trong gió trên đường phố Nguyễn Du, Lê Thánh Tôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm của Sàigòn thuở nào, cách đây ba, bốn chục năm...
Giống như ngọn rau muống, rau cần, khi xa rời khỏi đất Việt đã mất đi cái bản sắc, phẩm chất cố hữu của nó, thì con người Việt Nam một khi xa quê, họ cũng dần dần không còn là người Việt Nam thuần túy. Nhiều vị khi đọc bài viết của tôi có thể không đồng ý với tôi, có thể bảo tôi là người mất gốc. Nhưng sự thật là như vậy. Qúy vị dù có tức giận tôi thế nào chẳng nữa, nhưng xin qúy vị một chút bình tâm suy nghĩ xem, trong con người của qúy vị, chất Việt Nam còn lại được bao nhiêu và đã mất mát đi bao nhiêu"
Chiều hôm qua, ra vườn rau cùng với đứa cháu nội. Cháu nó nói tiếng Việt rất sõi. Đó là điều tôi rất mừng. Tôi mừng nhưng tôi biết mai sau nó cũng giống như các anh các chị của nó. Một khi đến trường học một thời gian là tiếng Việt lại quên dần.
Nhìn vườn rau tôi trồng, nó hỏi tôi:
- Nội ơi, rau này ở Việt Nam có không nội"
Tôi cười bảo nó:
- Rau này chỉ có ở Việt Nam thôi con. Nội mang sang đây trồng nên bên này mới có đó...
Nó cười hỏi tôi:
- Vậy là trước khi nội sang Úc, ở đây không có rau này, sao nội"
Tôi gật đầu nhìn nó:
- Ừ, trước đây ở Úc không có nội nên không có rau này.
Nó im lặng một lúc rồi hỏi:
- Vậy là Chúa sinh rau này ra chỉ để cho nội ăn phải không nội"
Tôi buột miệng:
- Ừ, Chúa sinh rau này chỉ để cho nội...
Nó tiếp lời:
- Cho cả bà nội ăn nữa chứ...
Tôi gật đầu:
- Ừ cho cả bà nội ăn nữa.
Nó lại nói:
- Cho cả con ăn nữa, phải không nội"
Tôi thừa nhận nó có lý:
- Ừ, cho cả con, cả nhà mình ăn...
Nó im lặng một chút, rồi lại hỏi:
- Nhưng chỉ cho người Việt ăn thôi, phải không nội"
Tôi ngạc nhiên, không biết nói sao. Nó ngước mắt nhìn tôi, cặp mắt đen lay láy. Trong cặp mắt của nó tôi thấy quê hương, kỷ niệm, quá khứ hiện về. Tôi trả lời một cách máy móc:
- Cho cả người Úc ăn nữa con. Con không thấy ông bà John rất thích ăn rau này sao"
Nó gật đầu, lông mày hơi nhíu lại. Rồi nói lại hỏi:
- Nhưng trước đây, người Úc không có rau nay ăn, phải không nội"
Tôi gật đầu chấp nhận:
- Ừ, trước đây người Úc không có rau này ăn.
Cháu tôi lại cất tiếng:
- Vậy là trước đây, Chúa sinh ra rau này chỉ cho người Việt ăn, phải không nội"
Tôi im lặng, nhận ra có cái gì vô lý trong cách giải thích của mình.
Cháu tôi lại cất tiếng:
- Nội mang rau này sang cho người Úc ăn, Chúa có phạt nội không, hở nội"...
Tôi đứng dậy, nhìn vào cặp mắt đen lay láy của đứa cháu. Một khoảng trời xanh trong vắt hiện về... Tôi ngửa mặt, nhìn lên bầu trời xanh. Mặt trời đã đứng bóng, nhưng ánh nắng không gay gắt, chói chang... Giờ này ở quê nhà chắc khoảng 9 giờ sáng là cùng. Tôi thầm nghĩ như vậy... và rồi tôi bâng khuâng, không biết tương lai, những đứa cháu của tôi, lớn lên trên đất Úc, có lúc nào nhìn trời mây non nước ở tổ quốc này mà nghĩ đến Việt Nam, quê hương của nòi giống tiên rồng hay không"...
Nguyễn Công Hải (Sydney - NSW)