Hôm nay,  

Quả Báo Nghiệp Chung: Lời Tiên Tri Của Một Danh Tướng

16/02/201600:00:00(Xem: 10088)

Danh từ "nghiệp chung" (đồng nghiệp) và danh từ "nghiệp riêng"

(biệt nghiệp) được bàn đến trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Chương I, Mục V, Đoạn III:

CHỈ RA HAI THỨ NHẬN THỨC SAI LẦM

(Nhận thức nghiệp riêng &Nhận thức nghiệp chung )

(bản Việt dịch của Cư Sĩ Tâm Minh, xuất bản năm 1961 tại Hà Nội )

Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một tác phẩm ghi lại cuộc vấn đáp giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và đệ tử là Tôn Giả A Nan nhân việc Tôn Giả suýt bị sa vào lưới tình của một mỹ nhân tên là Ma Đăng Già. Trong đời thường, một nam nhân độc thân sa vào lưới tình của một nữ nhân là một sự thường, nhưng một nam nhân có gia đình mà sa vào lưới tình mới thì đã là một sự bất thường, đưa đến những hệ quả bất ưng-- một bi kịch hay một thảm kịch sẽ xảy ra. Huống hồ một thanh niên tự nguyện đi tu, hứa giữ năm giới căn bản và cả trăm giới tỉ mỉ khác thì sự sa vào lưới tình, chủ động hay thụ động, là phạm giới lớn rồi. Trầm trọng hơn nữa, Tôn Giả lại là thị giả của Đức Phật, một thị giả nổi tiếng về trí nhớ uyên bác, có khả năng nói lại hầu như hoàn toàn những bài thuyết pháp của Đức Phật. (Về mặt này, Việt Nam có một thiên tài là ông Lê Quý Đôn ( 1726-1784), theo truyền thuyết chỉ đọc một lần sổ ghi thuế mà có thể đọc lại từ đầu chí cuối khi cuốn này bị cháy).

Khi đi khất thực môt mình, Tôn Giả A Nan đến trước cửa nhà mỹ nhân Ma Đăng Già, bị nàng dùng bùa chú mê hoặc,dẫn dụ vào trong nhà, sắp bị phá giới thể thì Đức Phật từ xa biết được, phái Bồ Tát Văn Thù đem thần chú Thủ Lăng Nghiêm đến đối trị, giải được nạn tai cho Tôn Giả, rồi đem cả hai về trình diện Đức Phật.

Như vậy, cả trong lúc gặp nạn cũng như lúc thoát nạn, Tôn Giả hoàn toàn thụ động, không làm chủ chính mình mà bị ngoại lực điều động. Khi trở về,

"Ông A Nan thấy Phật, đảnh lễ khóc lóc, giận mình từ vô thỉ đến nay, một bề học rộng, nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực, tha thiết xin Phật dạy cho những phép Samatha ( Chỉ ), Samadhi(Định), Jhana (Thiền ), là những phương tiện tu hành đầu tiên để thành đạo Bồ Đề của thập phương Như Lai". (Phần thứ nhất--Phần Tựa--Chương II--Tựa Riêng)

Đức Phật muốn ông A Nan tự mình phản tỉnh về lỗi của mình nên đặt những câu hỏi để ông tự tìm câu trả lời, dần dần đưa đến chỗ nhận ra những sai lầm trong nhận thức và hành động. Đức Phật hỏi ông lý do nào khiến ông từ bỏ đời sống vương giả của một hoàng tử để trở thành một tu sĩ khổ hạnh ngày ngày mang bình đi xin ăn. "Ông A Nan bạch Phật:" Tôi thấy 32 tướng của Như Lai tốt đẹp lạ thường, hình thể sáng suốt như ngọc lưu ly, thường tự suy nghĩ: Tướng ấy không thể do dục ái sinh ra. Vì sao? Giống dâm dục nhơ nhớp tanh hôi kết cấu, máu mủ xen lộn,làm sao sinh được thân vàng thắm chói trong sạch sáng suốt như vậy, nên tôi ước mong cắt tóc theo Phật tu học".(Phần Thứ Hai--Phần Chính Tông--Chương I--Mục I--Đoạn I)

Câu trả lời của ông A Nan cho thấy tâm ông bị lôi cuốn bởi sắc trần ngoại cảnh là hảo tướng của Đức Phật. Ông dùng lý luận để biện hộ cho hành động cắt tóc đi tu. Sắc trần ngoại cảnh là tướng giả dối, biến đổi vô thường. Tâm phan duyên vào cái vô thường chỉ là vọng tưởng điên đảo đưa thân vào dòng đời chìm nổi lênh đênh. Đức Phật nói ngay:"Hay thay A Nan, các ông nên biết hết thảy chúng sinh từ vô thỉ đến nay sống chết nối luôn đều do không biết thể tính trong sạch sáng suốt của thường trụ chân tâm mà lại chỉ dùng các vọng tưởng, vì vọng tưởng đó không chân thật nên mới có luân hồi".

Lời nói này của Đức Phật có thể được coi là định đề cho toàn bộ hệ thống lý luận của Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Thể tính trong sạch sáng suốt của thường trụ chân tâm đối nghịch với tướng trạng nhơ nhớp mờ tối của vọng tâm biến dịch.

Cái tài năng học rộng nhớ nhiều của ông A Nan không đủ đạo lực ngăn cản tâm ông bị cuốn hút bởi sắc dẹp của nàng Ma Đăng Già. Mỹ nhân chẳng cần dùng bùa chú huyền bí gì, vì sắc đẹp của nàng chính là bùa chú làm bản năng tình ái của ông A Nan nổi lên như sóng thần cuốn phăng tài năng chữ nghĩa. Trước sắc đẹp của nàng, ông A Nan lâm vào một tình cảnh hiện sinh như lướt tay trên lưỡi dao cạo, như đứng chênh vênh trên mỏm đá vực thẳm, như con thuyền bị dâng lên đầu ngọn sóng.

Trong khoảnh khắc sắp sa ngã, thì ông được giải cứu bởi Bồ Tát Văn Thù mang Chú Thủ Lăng Nghiêm đến hàng phục mỹ nhân. Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho Đại Trí Tuệ, Chú Thủ Lăng Nghiêm là Đại Định vốn sẵn có của Tâm Tính. Câu kinh này ngầm ý rằng trong ông A Nan vốn sẵn có Tính Giác vi diệu có huyền lực làm ông bừng tỉnh khỏi cơn mê, nhưng cũng phải nhờ vào tha lực mạnh mẽ của Đức Phật hỗ trợ.

Đức Phật diễn giải cho ông A Nan dần dần hiểu ra rằng cái thấy của ông và của loài người nói chung về vũ trụ ngoại cảnh qua sáu căn--mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý --là nhận thức sai lầm xét về hai mặt:

- Cái thấy, chẳng hạn nhìn thấy màu xanh, mầu đỏ, nghe thấy tiếng bổng tiếng trầm....không phải là Tính Thấy mà chỉ là công dụng của Tính Thấy vốn bao trùm khắp chốn và mọi thời chung cho cả mọi người, mọi vật. Tính Thấy có nơi con cua, con cá, con thỏ, con rắn...tùy theo xác thân mà công dụng thay đổi. Thí dụ Tính Thấy ứng dụng vào xác thân loài cá sẽ khiến loài cá thấy nước khác với loài người. Cấu tạo mắt của loài người khác với loài cú khiến loài cú nhìn ban đêm rõ hơn ban ngày...Như vậy cùng một đối tượng mà muôn loài với báo thân khác nhau sẽ "thấy" khác nhau. Cái thấy nào là đúng nhất ? Không thể trả lời

- Cái thấy, chẳng hạn của mắt, chỉ có thể xảy ra khi có chủ thể nhìn và đối tượng bị nhìn. Với riêng một loài thôi, thí dụ với mắt loài người, nếu không có ánh sáng thì đối tượng không thể thấy được, mà nếu có thấy thì chẳng phải đối tượng thực, chỉ là cái bóng. '

Để làm sáng tỏ hơn ý tưởng "Tính Thấy không phải là cái thấy", Đức Phật phân biệt nhận thức sai lầm nghiệp riêng và nhận thức sai lầm nghiệp chung.

- Nhận thức sai lầm nghiệp riêng: Thí dụ hai người cùng nhìn một bóng đèn sáng. Một người bị bệnh lòa nhìn thấy quanh bóng đèn một vòng tròn ngũ sắc bao phủ, còn người không bệnh thì không thấy như thế. Nếu người bệnh không biết mình bệnh sẽ cãi nhau với người kia, nhất định cho rằng vòng tròn ngũ sắc có thực. Trừ khi có người thứ ba làm chứng. Như thế bệnh lòa làm cho người bệnh thấy sai về đối tượng, đó là nhận thức sai lầm nghiệp riêng.

- Nhận thức sai lầm nghiệp chung: Nếu cả một nước đều bị bệnh lòa thì gọi là sai lầm đồng nghiệp. Cả một nhóm người bị lòa thì cả nhóm có nhận thức sai lầm đưa đến hành động tập thể sai lầm

"So sánh với hiện nay, ông dùng con mắt xem thấy núi sông, cõi nước và các chúng sinh, đều là do bệnh thấy vô thỉ tạo thành"

"Cái thấy và cái bị thấy duyên nhau, hình như hiện ra tiền cảnh, thực chất vốn là bệnh lòa, năng kiến sở kiến của tâm tính mà thôi"

"Giác ngộ rằng thấy như thế là bệnh lòa, thì cái tâm giác ngộ đó nhận thức không lòa". Đó là Tính Thấy làm cho tâm giác ngộ mình bị lòa, mà ở ngoài phạm vi bệnh lòa, cho nên Tính Thấy không phải là cái thấy.

Khái niệm "nghiệp riêng", "nghiệp chung" là những khái niệm cốt yếu của nhà Phật, về mặt lý thuyết dùng để lý giải nhiều cảnh đời "dường như khó hiểu" mà không tôn giáo nào khác giải nghĩa được, về mặt thực hành dùng để quán chiếu tu thân.

Nghiệp riêng và nghiệp chung có ảnh hưởng hỗ tương biện chứng với nhau. Thí dụ trong một gia đình bố mẹ khỏe mạnh sanh ra bốn người con đầu lành mạnh, nhưng đến người con thứ năm tật nguyền. Bản thân người con thứ năm có nghiệp riêng phải chịu khổ đau, nhưng cả gia đình phiền não, như vậy cả gia đình gánh nghiệp chung. Lãnh tụ một đoàn thể hay một dân tộc có nghiệp riêng là tài năng lãnh đạo,nhưng nhận thức sai lầm của ông ta sẽ tạo nên nhận thức sai lầm chung cho cả đoàn thể đó, dân tộc đó. Một cá nhân có nghiệp báo cá nhân, một tập thể có nghiệp báo tập thể. Nhưng trong nghiệp riêng có nghiệp chung, và ngược lại. Tục ngữ dân gian Việt Nam có câu: "Đời cha ăn mặn đời con khát nước". Chẳng phải ai làm người ấy chịu, mà người khác phải gánh luôn. Trong lịch sử loài người, rất nhiều thí dụ về nghiệp chung cho một dân tộc.


Dân tộc Nhật Bản sau khi hiện đại hóa theo văn minh kỹ thuật Tây Phương kể từ năm 1868, đại thắng đế quốc Nga năm 1905, đã ôm mộng đế quốc giống như các nước Tây phương.Năm 1910 Nhật đô hộ bán đảo Triều Tiên cho tới khi bại trận Thế Chiến Thứ Hai năm 1945. Trước và trong thế chiến, người Nhật đã bắt phụ nữ Triều Tiên làm nô lệ tình dục cho binh lính Nhật. Một thế kỷ sau, con cháu của lớp binh lính đó phải bồi thường 8 triệu mỹ Kim cho những nạn nhân được gọi là "comfort women" đó. Rõ ràng cha ông hưởng lạc,làm lỗi, con cháu gánh trách nhiệm.

Nhiều năm qua trong xã hội Mỹ thường xảy ra những thảm kịch do những cá nhân bất bình thường gây ra, xả súng bắn vào các trường học, nhà thờ, nơi giải trí là nhưng nơi không có hàng rào an ninh bảo vệ thường xuyên như các trại lính. Ở trường tiểu học Sandyhook, thị xã Newtown,tiểu bang Connecticut ngày 14 tháng 12 năm 2012 lúc 9:30 sáng khi trường đã vào học, đã có tới hai mươi em học sinh mới 6 hay 7 tuổi bị bắn chết ngay trong lớp học bởi một thanh niên 20 tuồi tên Adam Lanza. Tên này đã giết mẹ ruột ở nhà rồi bất ngờ đến trường còn bắn chết 6 nhân viên nữa rồi tự sát.

Nghiệp riêng của tên sát nhân đã taọ nên nghiệp chung của các em bé ngây thơ. Không thể nói khẩu súng trong tay hắn là thủ phạm, bởi vì cả ngàn người đều sở hữu những khẩu súng giống như thế. Chính cái tâm thù hận chất chứa bao đời trong hắn là thủ phạm. Tâm thù hận trái ngược với nhân tính nên tiêu diệt

đối tượng là chính mẹ ruột và những em bé thơ ngây chưa hề quen biệt. Nếu không dùng khái niệm "nghiệp riêng-nghiệp chung" thì không thể nào lý giải được nguyên nhân của thảm kịch. Tâm thù hận là một thứ bệnh lòa che mờ tính thấy hay tính giác bổn nguyên vốn trong sáng, vốn lành thiện. Tục ngữ dân gian Việt Nam có câu:"Tham mờ mắt, giận mất khôn, si quá hóa cuồng".

Chúng tôi xin thuật lại một câu chuyện cổ trong lịch sử thế giới trong đó một danh tướng đã tiên tri về quả báo nghiệp chung giáng lên dân tộc ông: Đế Quốc La Mã.

Bán đảo Ý Đại Lợi trên bản đồ trông giống một chiếc giày ống, gót giày ở về phía đông, mũi giày hướng về phía tây dường như sắp đá vào đảo Sicily trên Địa Trung Hải. Bán đảo Ý ở vào trung tuyến chia Địa Trung Hải làm hai phần, phần phía tây và phần phía đông. Đô thị La Mã lại nằm ở trung điểm của bán đảo.

Từ năm 1200 BC đến năm 800BC, bộ tộc Etruscans từ vùng Tiểu Á đến định cư ở phía bắc bán đảo. Từ năm 1000BC bộ tộc La Tinh từ rặng núi Alps xuống đinh cư ở Trung bộ bán đảo, bên bờ sông Tiber. Từ năm 750BC đến 600BC, người Hy Lạp chiếm miền Nam bán đảo lập ra 50 thuộc địa.

Thần thoại La Tinh kể rằng vào năm 753BC, Romulus, cha là thần chiến tranh Mars và mẹ là một công chúa La Tinh, đã khởi công xây dựng một đô thị lấy ngọn đồi Palatine Hill bên bờ sông Tiber làm trung tâm và xây tường thành để bảo vệ. Đô thị đó được đặt tên theo Romulus, gọi là thành Rome (La Mã). Từ lúc khởi đầu định cư, đó chỉ là một thôn làng nghèo nàn với những túp lều vách gỗ.

Rồi dần dần các vua La Mã cho xây dựng lâu đài nhà cửa đường xá. Các vua La Mã cai trị dô thị cho tới năm 509BC, thì các tướng lãnh quí tộc giết vua để lập nên nền Cộng Hòa cùng thệ nguyện rằng bất cứ ai có manh tâm làm vua đều sẽ bị giết không xét sử. Tầng lớp quí tộc tự cho là giòng dõi của Romulus nắm giữ hết chức vụ then chốt cao cấp trong nền cộng hòa gồm có chức Tổng Tài và một Thượng Viện, còn tầng lớp thứ dân tranh đấu suốt từ năm 494BC đến 287BC mới được tham dự chính quyền trong Hạ Viện. Tinh thần kỷ luật tôn trọng luật pháp của người La Mã, cùng khuynh hướng chiến đấu đã làm cho thành La Mã tổ chức được một quân đội hùng mạnh. Từ 509BC đến 275BC thành La Mã đem quân chinh phục hết bán đảo Ý.

Năm 282BC La Mã gây chiến với các thuộc địa Hy Lạp ở miền Nam, đánh bại danh tướng Hy Lạp Pyrrhus năm 275BC. Thế là La Mã làm chủ toàn bán đảo, trừ ra đảo Sicily đang tranh chấp với đô thị Carthage trên bờ biển Phi Châu đối diện và chỉ cách Sicily 80 dặm.

Cuộc chiến tranh La Mã-Carthage kéo dài từ năm 264BC cho tới năm 146BC mới chấm dứt với sự thắng lợi hoàn toàn của La Mã khiến La Mã trở thành thủ đô của một đế quốc rộng lớn kiểm soát toàn bộ Đia Trung Hải từ tây sang đông. Nhưng cũng chính thắng lợi này lại gieo cái mầm thảm bại sụp đổ của La Mã hơn 500 năm sau.

Cuộc chiến dai dẳng cả thế kỷ đó chia làm bốn thời kỳ.

1/ Thời kỳ thứ nhất: 264BC-241BC: La Mã đánh bại Carthage và làm chủ hòn đảo màu mỡ Sicily

2/ Thời kỳ thứ hai: 241BC-218BC: Hưu chiến giữa hai đô thị

3/ Thời kỳ thứ ba: 218BC-202BC: Danh tướng Hannibal của Carthage phục thù, kéo quân từ Tây Ban Nha, qua xứ Gaul, vượt qua rặng núi Alps đánh xuống, làm chủ toàn bộ bán đảo Ý nhưng không thể nào hạ được thành La Mã vì tường phòng thủ quá kiên cố. Năm 202BC danh tướng La Mã Scipio mang quân đánh thẳng vào Carthage khiến Hannibal không kịp về chống cự, đại bại trong trận chiến Zama. La Mã làm chủ Carhage nhưng vẫn cho Carthage tự trị dưới quyền kiểm soát của La Mã.

Sau trận chiến Zama, La Mã trở thành bá chủ Địa Trung Hải ở phía tây. Trong 70 năm tiếp sau đó La Mã chinh phục phần phía đông Đia Trung Hải thay thế đế q  uốc Hy Lạp đã suy tàn và làm chủ hoàn toàn phương đông vào năm 146BC.

Kể từ sau trận Zama, Carthage không còn là mối đe dọa về quân sự đối với La Mã, nhưng đô thị này vẫn thịnh vượng về mặt kinh tế, khiến cho một số lãnh tụ La Mã sinh lòng ghen ghét. Một trong số họ là thượng nghị sĩ Cato tỏ ra hận thù nhất, luôn luôn hô hào: "Phải tận diệt Carthage".

4/ Năm 149BC, La Mã tuyên chiến với Carthage lấy cớ đô thị này không xin phép La Mã khi gây chiến với láng giềng Numidia. Quân La Mã vây thành trong ba năm cho tới khi một danh tướng La Mã tên Scipio Aemilianus, cháu nội của danh tướng Scipio trong trận Zama trước kia, chỉ huy và phá được thành.

Quân La Mã vào thành và nổi lửa đốt tan hoang suốt 6 ngày mới tắt.

Nhìn cảnh điêu tàn của một đô thị trong bao năm sầm uất thịnh vượng, tướng Scipio khóc và nói với một người bạn: "Đây là giây phút vinh quang, nhưng tôi sợ rằng một ngày nào đó số phận này sẽ giáng lên xứ sở tôi"

(Xem sách WORLD HIOSTORY, Perspective on the Past, nhà xuất bản D.C. Heath and Company, 1992 USA&CANADA, Chương 6, trang 140)

Lời tiên tri của tướng Scipio đã được chứng thực đối với thành La Mã

trong 3 lần bị tàn phá

1/ Năm 410AD: bộ tộc Visigoths, vốn bị người La Mã gọi là rợ Germanic,do vua Alaric chỉ huy tiến quân từ rặng núi Alps xuống vây hãm. Một kẻ phản bội mở cửa thành và quân Visigoths tràn vào tàn phá cướp bóc trong 3 ngày.

2/ Năm 455AD: bộ tộc Vandals tiến quân từ Bắc Phi Châu theo đường biển vào cướp phá La Mã, bắt đi cả ngàn cư dân làm nô lệ.

3/ Năm 476AD: Hoàng Đế trẻ thơ 14 tuổi cuối cùng của La Mã là Romulus

Augustulus bị vua của bộ tộc Ostrogoths là Odoacer chiếm đóng La Mã truất ngôi bắt đi đày. Phần phía tây của đế quốc coi như xóa sổ.

Nghiệp riêng có quả báo của nghiệp riêng, nghiệp chung có quả báo của nghiệp chung. Trong sách WORLD HISTORY các tác giả nhận định rằng cuộc chiến tranh La Mã- Carthage vào giai đoạn cuối cùng 149BC-146BC không cần thiết, vì Carthage không còn là một đe dọa quân sự. Giả sử không có chính trị gia đầy lòng ghen ghét sân hận như Cato thì người dân La Mã sẽ không phải đi lính, mà dân Carthage cũng không chết thảm. Nếu La Mã cứ để cho Carthage tự trị dưới quyền kiểm soát của mình thì chưa chắc La Mã đã bị quả báo tàn phá nhiều lần sau này. Người dân Carthage không còn sống để trả thù, nhưng có người khác thay họ. Hay có khi họ đầu thai thành các rợ Visigoths...về trả thù chăng?

Các nhà lãnh đạo của La Mã bị bệnh lòa làm cho "mờ mắt,mất khôn,hóa cuồng" đã đưa đến tai họa cho dân tộc mình. Lịch sử dân tộc Việt Nam cũng không ở ngoài sự chi phối của định luật "nghiệp riêng-nghiệp chung".

Đào Ngọc Phong

Westminster, CA 12 tháng 2 năm 2016

Ý kiến bạn đọc
17/02/201602:50:59
Khách
<cũng phải nhờ vào tha lực mạnh mẽ của Đức Phật hỗ trợ.>
Phật đã nói không giúp ai , không phù hộ cho ai , không giáng họa ai...kia mà
Chữ phật trong Phật giáo có mghĩa là không.
16/02/201616:12:34
Khách
Bài viết tản mác kể lung tung nên không nhấn mạnh duợc trọng tâm vấn đề.
Chơn tâm và vọng tâm là 1 chuyện, còn Cọng nghiệp và Biệt nghiệp là 1 vấn đề khác.
Tạo Nghiệp vì chạy theo vọng tâm,theo cảnh sắc cám dỗ bên ngoài, quên mất chơn tâm vốn tịch lặng bất biến.
Còn cọng Nghiệp là như sau 75, 99% toàn dân Vn bị CS cai trị hành hạ,đói khổ,nhưng lại có 1 số may mắn vuợt biên lọt , hay đi HO thoat ra nước ngoài ăn nên làm ra, tự do hạnh phúc.. Hay như cả ghe vuợt biên chìm chết (cọng nghiệp),chỉ có một hai người sông sót (biệt nghiệp) được đưa qua Mỹ.
16/02/201615:17:17
Khách
Nếu nói như Ông / Bà Kỳ Nghĩa, thì giải thích làm sao trường hợp của Nước Syria. Chỉ vì Ông Bashar Al- Assad tham quyền cố vị mà đất nước Syria bị tàn phá vì bom đạn. Các Cường Quốc xúm nhau, thi đua dội bom. Nếu và Nếu như Ông Assad và những người chống đối không có "Biệt Nghiệp" và "Cộng Nghiệp" thì người Dân Syria không phải chịu cảnh chiến tranh tang tóc.
16/02/201614:39:30
Khách
Thực ra không có thể biết được cái nghiệp trước khi lảnh quả báo của nó, ngoại trừ các Đấng giác ngộ. Người ta chỉ có thể giải thích hay chứng minh cái nghiệp khi quả báo đã được trả. Nhưng sự chứng minh đó dù sao cũng bị chi phối bởi chấp kiến của người thường . Chỉ có một điều chắc chắn rằng Nhân tốt thì sẽ cho Nghiệp tốt.
16/02/201613:21:24
Khách
Chỉ có mỗi một chuyện của một ông tướng nào đó, làm sao chứng minh có nghiệp riêng nghiệp chung? Trong khi trên thế gian có vô số sự việc đã và đang diễn ra, đâu thấy theo qui luật nào đâu?
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.