Hôm nay,  

Vấn đề của đảng Cộng Sản Việt Nam (2)

30/04/201622:47:00(Xem: 6250)
Vấn đề của đảng Cộng Sản Việt Nam

Tạ Dzu

(Phần 2)

Đâu là yếu tố quyết định đời sống con người?

Tâm thức chỉ chung các khía cạnh của trí tuệ và ý thức, thuộc tinh thần, không thuộc về vật chất. Tâm thức bao gồm các quá trình có ý thức của não bộ như tư tưởng, trí nhớ, trí tưởng tượng, ý muốn, cảm xúc v.v…

Duy Tâm là trường phái khẳng định rằng chỉ duy yếu tố tinh thần vô hình, sản sinh ra mọi hiện tượng sống. Yếu tố vô hình trừu tượng này có trước vật chất và tồn tại độc lập với thế giới thực tại, thường được trường phái Duy Tâm dùng để giải thích cho thượng đế hiện hữu từ vô thuỷ vô chung. Xuất phát tối sơ là sự phát sinh và cứu cánh của thần. Phương pháp luận thường được sử dụng là phép tam đoạn luận. Đến thế kỷ 19, Hegel tu chỉnh lại, đặt ra duy tâm biện chứng pháp, lý giải mọi biến đổi đều tuỳ thuộc vào tinh thần tuyệt đối.

Trái lại, nhân vật nổi tiếng của trường phái Duy Vật cận đại là Các Mác, cho rằng vật chất là bản chất của mọi thực tại, và rằng vật chất tạo ra tư tưởng chứ không phải ngược lại. Tư tưởng và mọi thứ xuất phát từ tư tưởng như nghệ thuật, luật pháp, chính trị, đạo đức v.v… đều là sản phẩm của bộ não, xuất hiện từ một trạng thái nhất định của sự phát triển vật chất sống. Do đó, đạo đức, tôn giáo, siêu hình học không còn giữ vẻ độc lập được nữa. Chúng không có sự phát triển nào cả, mà là con người trong quá trình phát triển nền sản xuất vật chất và những mối liên hệ nội tại vật chất giữa họ với nhau, cho họ thấy rằng đời sống không phải được quyết định bởi ý thức, mà là ý thức được quyết định bởi đời sống vật chất.

Nhà duy vật không đi tìm lời giải thích cho các hiện tượng sống từ tư tưởng mà từ bản thân những hiện tượng vật chất, dưới dạng nguyên vật chất chứ không phải từ sự can thiệp phi tự nhiên như thượng đế. Nói khác đi, thuyết Duy Vật cho rằng chỉ duy yếu tố vật chất sản sinh ra mọi hiện tượng sống.

Với phương pháp diễn dịch trong việc thiết lập lý thuyết cổ điển, các triết gia đưa ra một thực thể quan trọng nhất, gọi là đối tượng tối cao, là đầu mối của tất cả mọi sự, rồi từ đó suy niệm ra mọi quy luật, gọi là xuất phát tối sơ.

Thế nào là vật chất? Nguyên tử, điện tử, lượng tử…, những thứ cực nhỏ hay vũ trụ cực lớn? Cả hai thái cực từ cực tiểu đến cực đại, lấy gì làm đối tượng tối cao để quyết định tính tuyệt đối của vật chất?

Công cuộc nghiên cứu vật chất đi vào giai đoạn mới và phát hiện ra nhiều điều mới lạ vào thập niên 1920 của thế kỷ 20 với môn Lượng Tử (Quantum Mechanics) và sự chế tạo các loại máy gia tốc. Người ta khám phá ra các hạt hadron, trong đó có proton và neutron được cấu tạo bởi các vi tử cơ bản gọi là quark. Ngoài ra, vật chất còn gồm hai loại hạt khác nữa, lepton và gauge particle. Thuyết tương đối chứng minh vật chất và năng lượng tương đương với nhau, đặc biệt là huỷ bỏ tính chất tuyệt đối của không gian, thời gian, khối lượng và chứng minh sự thống nhất giữa không gian và thời gian (thời-không thống nhất). Vật chất không còn là một thực thể đơn giản như ở thế kỷ 19.

Bằng con mắt khoa học, người ta có thể nhận thấy rằng từ những nguyên tử nhỏ bé cho đến vũ trụ to lớn đều tồn tại cả phần hữu hình lẫn vô hình. Nguyên tử là đơn vị cơ bản của vật chất, gồm hạt nhân ở giữa và bao quanh bởi electron mang điện tích âm. Hạt nhân là một kết hợp giữa các proton mang điện tích dương và các neutron trung hoà không điện tích. Hạt nhân có mật độ vật chất đậm đặc cực lớn, đến 100 triệu tấn trên một centimet khối. Đó là phần hữu hình. Một nguyên tử sẽ không được hình thành nếu thiếu các phần vật chất này. Đâu là phần vô hình? Đó chính là trật tự xoay vần giữa chúng. Phá vỡ trật tự này, nguyên tử sẽ nổ. Trật tự xoay vần giữa các hành tinh chung quanh mặt trời, rồi Thái Dương hệ trong dải Ngân hà, rộng ra tới toàn thể vũ trụ chính là phần vô hình. Nguyên tử và các hành tinh đâu phải như bộ não người, qua lao động mà phát sinh ra trật tự quân bình vô hình kia? Chúng hiện hữu ngay từ lúc vũ trụ được hình thành.

Khoa học cho thấy sự sống con người cũng không khác, cần có cả hai yếu tố tinh thần vô hình và vật chất hữu hình. Quan sát những người bị tình trạng hôn mê, từ vài ngày đến vài tuần hoặc vài tháng, có khi nhiều năm, người ta thấy một số dần tỉnh lại, số khác chết đi, số còn lại vẫn sống nhưng không còn biết hay cảm nhận được gì nữa. Thân thể, phần vật chất vẫn sống nhưng đã mất đi đời sống tinh thần. Người ta gọi đó là cuộc sống thực vật, không còn là con người bình thường.

Duy Vật là cách nhìn thiên nhiên dưới dạng bản thể của vật chất.

Duy Tâm là cách nhìn thiên nhiên dưới dạng các suy nghĩ qua trí óc của con người.

Hai cách nhìn này thay vì phải bổ túc cho nhau để có một tầm nhìn tròn đầy hơn về con người, lại bị một số người chọn làm công cụ lý luận siêu việt nhằm tiến hành cách mạng, gây chiến tranh, đau thương và đổ nát cho cả nhân loại trong thế kỷ vừa qua mà Việt Nam bất hạnh là lò lửa nóng nhất trong cuộc Chiến tranh Lạnh thế giới. Đó là những cái nhìn phiến diện, chưa nêu ra được bản chất đặc thù của phạm trù “người”.

Chủ thuyết Duy Sinh mà Tôn Dật Tiên và các đệ tử của ông muốn khai triển qua chủ nghĩa Tam Dân là triết phái trung dung, tìm cách dung hoà Duy Vật và Duy Tâm. Duy Sinh chủ trương rằng con người do sinh lý phát triển tạo ra sinh hoạt, được duy trì bằng sinh nguyên (tế bào sống của hữu cơ sinh vật) mà phát sinh vũ trụ và xã hội. Tiền đề tối định là sinh tồn vận động. Xuất phát tối sơ là sinh thể. Duy Sinh chú trọng đến hiện tượng sinh hoạt vật chất trong vũ trụ. Điều kiện hoạt động nhân chủng trong xã hội bị siêu hình hoá thành vũ trụ quan. Thực ra Duy Sinh chưa thành một hệ thống tư tưởng, vẫn còn dò tìm manh mối để bổ túc cho chủ thuyết. Do căn cứ vào sinh thể, sinh nguyên và sinh tồn vận động, họ dễ rơi vào chủ trương chủng tộc siêu việt, tiêu diệt hoặc nô lệ hoá các dân tộc nhỏ yếu.

Mỗi triết thuyết chỉ phản ảnh được một phần của đời sống, không thấy rằng con người là một tổng hợp bao gồm cả ba yếu tố Tâm, Vật, Sinh. Không có con người, vũ trụ cứ vô tình quay mãi. Có cũng như không. Con người tạo ra ý nghĩa cho đời sống. Chỉ ‘duy’ một yếu tố tâm, vật hay sinh, không thể tạo lập hiện tượng sống. Không thể có cuộc sống thuần vật chất, thuần tinh thần hay thuần cầu sinh.

Trời đất có đó, thời tiết vẫn đều đặn thay đổi, nhưng chỉ khi con người xuất hiện mới biết phân định thời gian trước sau, đặt tên bốn mùa, tạo ra lịch, ăn mừng ngày khởi đầu mùa Xuân, rồi cứ thế tiến hoá. Con người lập tâm cho trời đất, lập mệnh cho nhân sinh theo nghĩa đó.

Người chính là nguồn gốc hiện tượng sống của con người mà các chủ thuyết đã bỏ quên hoặc chỉ nhìn thấy một phần, như những kẻ sờ voi. Cần phải đặt lại vấn đề: chính con người, qua dòng lịch sử tiến hóa của mình, từ thời nguyên thủy đến ngày nay và mai sau, là nguyên nhân lẫn động lực tiến hóa cho chính đời sống của con người toàn diện, từ thân thể đến tâm lý và xã hội.

Vậy khi nào con người là người? Do yếu tố nào mà vượn người hay tinh tinh thành người?

Từ lúc nào người thành người?

Theo các nhà nhân chủng học và thuyết Rời Khỏi Châu Phi (Out Of Africa) thì khoảng hai triệu năm trước, loài Homo habilis có hai chân, có khả năng làm những dụng cụ thô sơ bằng đá, dung lượng não cao hơn tinh tinh (chimpanzee) nhưng thấp hơn người hiện đại, đã tiến hoá thành giống người Homo erectus đi đứng thẳng lưng. Chính họ là giống rời khỏi châu Phi đi tản mạn khắp nơi trên thế giới. Cho đến cách nay khoảng 500 ngàn năm, giống người đứng thẳng tiến hoá thành người thông minh Homo Sapiens, bộ não có hình dạng và dung lượng giống với người hiện đại.

Vẫn theo nhân chủng học, cách đây 10 triệu năm, có ít nhất hai giống khỉ ở châu Phi, một là tổ tiên của loài khỉ đột ngày nay, và một là tổ tiên chung của tinh tinh và con người. Nhưng sau đó khoảng 4-5 triệu năm, tổ tiên của loài tinh tinh và tổ tiên loài người tách rời thành hai giống khác nhau. Các nhà khoa học chưa biết rõ tại sao, đưa ra giả thuyết rằng có thể do phóng xạ mà con người chỉ có 23 cặp nhiễm sắc thể, trong khi loài tinh tinh có 24 cặp. Đây vẫn còn là một thách đố lớn cho giới nhân chủng và khoa học gia, rằng có phải tổ tiên của cả tinh tinh và loài người tách ra làm hai, hay người là một giống hoàn toàn khác biệt với tinh tinh?

Dựa theo thuyết tiến hoá của Darwin, Mác và Ăng ghen cho rằng nhờ lao động mà bộ óc con người phát triển, biết suy nghĩ và có tư tưởng. Ăng ghen viết trong tác phẩm “Vai trò của lao động trong sự biến đổi từ vượn sang người” năm 1876 như sau:

“Trước tiên là lao động, sau đó là cùng với khả năng nói - đó là hai yếu tố kích thích cốt yếu nhất mà dưới ảnh hưởng của chúng bộ não của vượn đã dần biến đổi thành bộ não người, chúng có hầu hết những điểm tương tự nhau nhưng não người lớn và hoàn thiện hơn rất nhiều. Cùng song hành với sự phát triển của bộ não là sự phát triển của những công cụ trung gian quan trọng nhất của nó - các giác quan.”

Việc phát hiện một cách khoa học rằng con người tách khỏi loài tinh tinh, với hệ thống nhiễm sắc thể hoàn toàn khác, đã đủ chứng minh không phải loài vượn hay tinh tinh thông qua lao động mà tiến hoá thành người. Trong thực tế, cho đến nay không có loài vượn hay tinh tinh nào tiếp tục lao động để tiến hoá thành người được nữa.

Vậy loài người tách ra khỏi giống tinh tinh và thành người như thế nào? Trước hết, rõ ràng là nếu loài người chỉ sống như tự nhiên, tức vẫn hái lượm và săn bắt như bao loài thú khác, thì con người không thành người. Con người là người từ lúc biết tìm cách sống khác với các loài động vật khác. Cái “biết” chủ quan của người làm cho người khác với những thú vật khác từ khi khám phá ra lửa, biết ăn chín, giữ vệ sinh và biết tu chỉnh tự nhiên để phục vụ cho chính con người.

Mác nhìn ra khách quan mà không thấy chủ quan.

Hạt cây rơi xuống đất hay do chim ăn rồi thả xuống vùng nào đó thì chỉ trông chờ vào may rủi mưa nắng của đất trời mà mọc lên. Con người thì khác. Họ chủ động đem hạt đi trồng cây mới, tức tu chỉnh tự nhiên để phục vụ chính mình và cộng đồng; khả năng thuần hoá gia súc cũng mang ý nghĩa tương tự. Nói theo nhà tư tưởng Việt là Lý Đông A (1920-1946?) thì con người “tái sinh sản” (sản xuất) cách sinh sản (sản xuất) của tự nhiên và “tái hiệu suất, hiệu suất của lịch sử” (LĐA, Duy Nhân Cương Thường, 1943).

Từ đó mới có đời sống và xã hội người.

Không như Mác nghĩ, ông cho rằng ngay từ trong xã hội nguyên thuỷ - con người còn ăn lông ở lỗ, đực cái lẫn lộn như động vật, săn bắt hái lượm như loài thú - đã bắt đầu đời sống người.

Dòng đời cứ trôi đi, con người tiếp tục sống. Nhưng lịch sử loài người khác hẳn, càng ngày càng văn minh tiến bộ, càng ngày càng “người” hơn theo cái biết dựa trên lập trường nhân đạo của người, chứ không phải của tự nhiên để giành giật phương tiện sản xuất, bỏ tù đồng bào, giết hại đồng loại không gớm tay. Các loài vật khác cả triệu năm qua vẫn sống như thế.

Mác nhận thấy mâu thuẫn giữa người và tự nhiên phải một mất một còn như các loài thú khác, nên người cộng sản áp dụng trực tiếp quy luật mâu thuẫn đối kháng vào xã hội, hô hào các giai cấp tiêu diệt nhau nào khác thú vật? Khi đưa quy luật tự nhiên vào xã hội người, con người phải điều chỉnh lại để mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn huỷ diệt trở thành quy luật đối lập thống nhất - có khác biệt nhưng đều cùng cần tồn tại, cần dung hòa, không triệt tiêu nhau: đối lập thống nhất giữa tự nhiên và xã hội; đối lập thống nhất giữa nhà nước và nhân dân; giữa cá thể và tập thể.

Nhờ sự tự điều chỉnh theo hướng nhân đạo (đời sống người) đó mà loài người ngày nay biết hô hào bảo vệ, lành mạnh hoá môi trường sống; biết ‘go green’; biết chống đối lãnh đạo Hà Nội đốn bỏ cây xanh; biết lên tiếng trên báo chí ‘lề dân’ phản đối công ty Formosa ở Vũng Áng thải chất độc làm hại thiên nhiên và con người.

Cái nhìn một chiều đặt nặng vật chất vạn năng, vật chất quyết định tất cả gây nguy hiểm cho đời sống muôn loài như thế. Sống nương nhờ vào Mẹ Tự Nhiên (Mother Nature) thì cũng phải biết ‘hòa’ cùng Mẹ Tự Nhiên, bảo vệ Mẹ Tự Nhiên. Mẹ Tự Nhiên chết đi thì con người cũng chẳng thể sống.

Con người cần sống cuộc sống “tự nhiên hòa”. Đừng để bị vật chất hóa, tự nhiên hóa như quan điểm cộng sản. Không thể xây dựng được một đời sống tiến bộ và an bình nếu không vừa tu chỉnh, vừa bảo vệ được môi trường sống tự nhiên chung quanh con người.

Tạ Dzu

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.